Các yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trong nội dung bài viết dưới đây, Công ty Luật TNHH PT xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:
Căn cứ pháp lý:
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015
Thế nào là yêu cầu về hôn nhân gia đình
Yêu cầu về hôn nhân gia đình trong tố tụng dân sự đề cập đến quyền của cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan không có tranh chấp nhưng muốn Tòa án xem xét và quyết định về một sự kiện pháp lý liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình.
Điều này có thể là yêu cầu công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý cụ thể, như việc công nhận hoặc không công nhận quan hệ hôn nhân, quyết định về quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hôn nhân và gia đình, hoặc không công nhận một số vấn đề cụ thể trong lĩnh vực hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, việc xác định liệu yêu cầu về hôn nhân gia đình có thẩm quyền của Tòa án hay không là vô cùng quan trọng. Điều này quyết định liệu Tòa án có thể tiếp nhận và giải quyết yêu cầu hay không. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu về hôn nhân gia đình của Tòa án được quy định cụ thể tại Điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định pháp luật trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án đối với các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình. Điều này giúp đảm bảo tính công bằng, minh bạch và đáng tin cậy trong quá trình giải quyết các tranh chấp và yêu cầu về hôn nhân gia đình tại Tòa án.
Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ
Căn cứ Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
– Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
– Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
– Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự.
Các yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
– Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 29, khoản 2 Điều 35 và điểm g, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thông thường Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật.
– Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Yêu cầu thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là một trong những yêu cầu về hôn nhân, gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
– Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
– Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
– Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi không có tranh chấp giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi nên đâu là việc hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Việc nuôi con nuôi dựa trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ lợi ích của người con nuôi đồng thời cũng đảm bảo cho quyền và lợi ích của cha, mẹ nuôi.
– Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
– Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án.
– Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Vợ chồng trong quá trình kết hôn và sinh sống có quyền lựa chọn chế độ tài sản theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận giữa họ. Tùy thuộc vào quyết định của họ, họ có thể chọn chế độ tài sản cộng đồng, chế độ tài sản riêng lẻ hoặc chế độ tài sản phân biệt.
Tuy nhiên, việc thỏa thuận về chế độ tài sản phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là thỏa thuận về chế độ tài sản phải được lập theo các quy định cụ thể, bảo đảm đúng quy trình và nội dung quy định bởi pháp luật.
Nếu thỏa thuận về chế độ tài sản không tuân thủ các quy định của pháp luật, thì thỏa thuận đó có thể bị coi là vô hiệu và không có giá trị pháp lý. Điều này có thể dẫn đến việc áp dụng chế độ tài sản mặc định theo quy định của pháp luật, hoặc có thể yêu cầu điều chỉnh thỏa thuận theo đúng quy định của pháp luật để có hiệu lực.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Tòa án Việt Nam chỉ thừa nhận giá trị pháp lý và thực thi bản án, quyết định dân sự do Tòa án nước ngoài tuyên nếu có yêu cầu. Chủ thể có quyền yêu cầu đó là là người được thi hành bản án, quyết định.
– Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Xác định quan hệ cha mẹ con là những mối liên kết xã hội được hình thành và công nhận trong quá trình xác định và thừa nhận vai trò của các cá nhân làm cha, mẹ và con trong một gia đình. Điều này thường liên quan đến các quy định về huyết thống, được quy phạm và điều chỉnh bởi luật pháp để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Trong các trường hợp có tranh chấp về quan hệ cha mẹ con, thì thẩm quyền của Tòa án được xác định theo quy định tại khoản 4 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều này có nghĩa là Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và ra quyết định đối với các vấn đề liên quan đến quan hệ gia đình, bao gồm cả việc xác định và thừa nhận tư cách làm cha, mẹ, con, cũng như các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ này.
– Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu về hôn nhân và gia đình, mặc dù không được cụ thể quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án, nhưng lại được điều chỉnh và quy định trong các văn bản pháp luật khác sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Các yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!