Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

 2. Miễn trách nhiệm hình sự là gì?

miễn trách nhiệm hình sựMiễn truy cứu trách nhiệm hình sự là gì là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.

Như vậy, người được miễn trách nhiệm hình sự là người có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp nhất định chứ không phải người không phạm tội. Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án áp dụng (tùy theo từng giai đoạn của vụ án).

Miễn trách nhiệm hình sự được quy định lần đầu trong Bộ luật Hình sự năm 1985, từng bước dần hoàn thiện trong Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015.

Đây là một chế định phản ánh nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời, tăng cường khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội thông qua các hình thức trách nhiệm hình sự ngoài cộng đồng.

Cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ cơ sở của trách nhiệm hình sự, tức là hành vi phạm tội của người phạm tội, song do có những điều kiện mà luật định để có thể được miễn trách nhiệm nên người phạm tội trong trường hợp có được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.

Không thể miễn trách nhiệm hình sự đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ để xác định được hành vi của người đó là hành vi phạm tội.

3. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015, miễn trách nhiệm hình sự có thể chia thành 02 loại là đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự

Đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp, một người có hành vi phạm tội sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự mà không cần có điều kiện nào khác kèm theo.

Cụ thể, các trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là:

(1) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Theo Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015, Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

(2) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (theo điểm a khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự)

Đây là trường hợp mà người đã thực hiện hành vi được coi là tôi phạm, nhưng trong quá trình tố tụng có sự thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Ví dụ: Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ 11 tội so với Bộ luật Hình sự 1999, trong đó có các tội như: “Tội tảo hôn” được quy định tại Điều 148; “Tội hoạt động phỉ” được quy định tại Điều 83;….

Do đó, kể từ ngày Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật những người trước đây đã thực hiện một (hoặc nhiều) trong các hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm (11 tội đã bỏ) mà sau ngày Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật mới bị phát hiện thì được coi là hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và mặc nhiên người có hành vi này được miễn trách nhiệm hình sự.

(3) Khi có quyết định đại xá (theo điểm b khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự)

Đại xá là một chính sách khoan hồng của Nhà nước, trong đó thực hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự, tha tội hoàn toàn, miễn hình phạt cho một số loại tội phạm hoặc nhiều người phạm tội nhất định không phân biệt họ đang chấp hành hình phạt, đã bị truy tố hay xét xử hay chưa.

Văn bản đại xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích

Thẩm quyền ra quyết định đại xá thuộc về Quốc hội và được ban hành nhân dịp những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.

Đến nay, Việt Nam mới có 2 lần đại xá, đó là vào năm 1946 và năm 1976.

(4) Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự)

Theo khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội gián điệp thì người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này.

Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự

Đây là trường hợp không đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. Đòi hỏi phải cơ quan tiến hành tố tụng có sự đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án của để xét xem có được miễn trách nhiệm hình sự hay không.

(1) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2 Điều 29)

Đây là trường tình hình thực tế thay đổi khiến hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa chứ không phải do thay đổi chính sách pháp luật.

Về lý luận và thực tiễn, trường hợp này rất khó xác định. Các cơ quan tiến hành tố tụng ít khi áp dụng trường hợp này để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

Trường hợp cũng được coi là do chuyển biến tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong trường hợp người phạm tội phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt mà thiếu họ thì nhiệm vụ đó khó hoàn thành, nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã miễn trách nhiệm hình sự cho họ để họ nhận nhiệm vụ đặc biệt đó.

(2) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29)

Bệnh hiểm nghèo là một bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Nghị định 134/2016/NĐ-CP đã quy định cụ thể danh mục các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư, nhồi máu cơ tim lần đầu, teo cơ tiến triển,…

Tuy nhiên không phải bệnh hiểm nghèo nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự mà phải có thêm điều kiện không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.

(3) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận (điểm c khoản 2 Điều 29)

Người tự thú có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện:

  • Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát hiện, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm.
  • Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm. Ở đây có nghĩa là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm.

Ví dụ như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm đang bỏ trốn, thu hồi tang vật,… Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được coi là tự thú để làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.

  • Cùng với việc tự thú, người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; thu lại những nguồn nguy hiểm mà họ đã tạo ra cho người khác hoặc những lợi ích khác, trả lại tài sản đã chiếm đoạt…
  • Đồng thời, phải được coi là lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

(4) Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 29).

Việc hòa giải giữa người phạm tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm. Đó là tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác.

Tuy nhiên, nếu người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mà cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không thể miễn được thì cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, đồng thời giải thích cho người bị hại biết vì sao không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội được.

(5) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 91)

Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo khoản 2, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Hình sự quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

(6) Những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể.

Ví dụ:

  • Người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 247 Bộ luật Hình sự
  • Người đưa hối lộ dù không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự
  • Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 365 Bộ luật Hình sự
  • Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 390 Bộ luật Hình sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

CÔNG TY LUẬT PT

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Xin trân trọng cảm ơn!

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
088.8181.120