Công ty Luật TNHH PT xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:
Căn cứ pháp lý
Phòng vệ chính đáng là gì?
Căn cứ Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015, theo đó Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Như vậy, để được coi là phòng vệ chính đáng, cần phải thỏa 2 điều kiện sau:
+ Có hành vi xâm phạm đến lợi ích chính đáng của mình, người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức.
+ Chống trả một cách cần thiết và đủ để ngăn chặn hành vi xâm phạm nói trên.
Nếu thỏa 2 điều kiện trên thì được xem là phòng vệ chính đáng và được loại bỏ trách nhiệm hình sự.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Về việc xác định có vượt quá hành vi phòng vệ chính đáng hay không vẫn đang và để lại nhiều bất cập trong công tác xử lý vi phạm hình sự. Ngoài ra, cần xét dựa trên nhiều yếu tố để có thể xác định một hành vi có được xem là vượt quá giới hạn phòng vệ hay không. Do đó, đứng dưới góc nhìn khách quan và dựa trên những dữ kiện bạn cung cấp. Tôi cho rằng đây là hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Phòng vệ chính đáng có phải là tội phạm không?
Căn cứ vào khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Như vậy, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Tuy nhiên nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định về vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
– Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
– Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Tự vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây thương tích 22% thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Căn cứ Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”
Theo đó, trường hợp người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Phạm tội thuộc những trường hợp khác theo quy định nêu trên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với khung hình phạt tương ứng. Trong trường hợp của bạn, mức độ của hành vi tấn công bằng dao là rất nguy hiểm, có thể uy hiếp đến tính mạng của bạn, bạn có quyền phòng vệ.
Tuy nhiên trường hợp bạn phòng vệ có chính đáng hay đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì cần xem xét kết luận của cơ quan điều tra có thẩm quyền. Nhưng việc phòng vệ này chỉ gây thương tích cho người kia 22% thì rõ ràng chưa đủ căn cứ để cấu thành tội này bởi ngoài yếu tố vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn phải gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên. Nên việc bạn chống trả dẫn đến làm người đó bị thương, tỉ lệ tổn thương là 22% thì sẽ không phạm tội này.
Hình phạt đối với trường hợp cố ý gây thương tích do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Trong trường hợp phòng vệ chính đáng vượt quá mức cần thiết, thì tùy theo mức độ phạm tội mà có như hình phạt cụ thể.
Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng bị xử phạt như sau:
– Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
+ Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
– Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Bên cạnh đó, người cố ý gây thương tích do vượt quá phòng vệ chính đáng vẫn là một trong các tình tiết được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: “Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng dẫn đến chết người thì bị xử phạt như thế nào?
Căn cứ vào Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau:
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Như vậy, người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Nếu phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Phòng vệ chính đáng có phải là tội phạm không? Tự vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây thương tích 22% thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ tổng đài 24/7 088.8181.120
hoặc Bạn có thể lick vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật PT luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn
- Điều kiện xác định các khoản nợ phải thu khó đòi và cách xử lý (2022)
- Quyền thừa kế đối với đất thuê theo pháp luật hiện hành 2022
- Khi nào một người bị tuyên bố mất tích theo Bộ luật Dân sự?
- Quy hoạch đô thị là gì? Tại sao phải quy hoạch đô thị? Đồ án quy hoạch đô thị? 2022
- Cách giành quyền nuôi con khi ly hôn