Danh mục: Pháp luật hôn nhân

  • Khi ly hôn thì ngôi nhà mua trả góp của hai vợ chồng sẽ được chia như thế nào? (2022)

    Khi ly hôn thì ngôi nhà mua trả góp của hai vợ chồng sẽ được chia như thế nào? (2022)

    Khi ly hôn thì ngôi nhà mua trả góp của hai vợ chồng sẽ được chia như thế nào? Nếu ly hôn và đã chia ngôi nhà cho vợ thì chồng có quyền ở lại nữa hay không?

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    2. Nhà mua trả góp là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng?

    Tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

    Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

    Và theo Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

    Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

    1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

    2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.

    Trong trường hợp, ngôi nhà mua trả góp là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn sẽ được chia cho cả hai vợ chồng. Còn nếu là tài sản riêng sẽ không được chia.

    Tuy nhiên, để chứng minh căn nhà trả góp là tài sản chung hay riêng thực tế lại khá phức tạp. Bởi nếu không chứng minh được đây là tài sản riêng thì căn nhà trả góp này sẽ trở thành tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    Khi đó, căn nhà thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    Đặc biệt lưu ý: Tại khoản 2 Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nêu rõ, công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi là lao động có thu nhập. Và không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập (Điều 29 Luật HN&GĐ).

    Như vậy, tùy vào thỏa thuận của hai vợ chồng hoặc nguồn tiền dùng để mua nhà trả góp để xác định căn nhà này là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    3. Nhà mua trả góp trước khi kết hôn là tài sản chung hay riêng?

    Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Căn cứ theo quy định trên thì nhà mua trả góp trước khi đăng ký kết hôn nhưng các đợt trả góp trong thời kỳ hôn nhân được thanh toán bằng tiền lương hoặc các thu nhập khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phần nhà ở được trả góp là tài sản chung của vợ chồng.

    Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

    Như vậy, đối với người mua nhà trả góp trước khi đăng ký kết hôn với mục đích làm tài sản riêng và đứng tên một mình thì khi bán vẫn phải có sự đồng ý của người vợ/chồng còn lại hoặc khi ly hôn vẫn phải chia nếu tiền trả góp là tiền lương, thu nhập khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ khi thanh toán bằng tiền được tặng cho, thừa kế riêng.

    4. Khi ly hôn thì ngôi nhà mua trả góp của hai vợ chồng sẽ được chia như thế nào?

    Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc chia tài sản như sau:

    Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

    1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

    a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

    b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

    3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

    4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

    Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”

    Căn cứ vào Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì việc chia tài sản sẽ do hai bên thỏa thuận hoặc thực hiện theo nguyên tắc chia đôi nhưng có tính đến:

    – Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

    – Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung;

    – Lỗi của mỗi bên khi vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng…

    Đồng thời, tài sản chung của vợ, chồng được chia theo hiện vật. Nếu không chia theo hiện vật thì chia theo giá trị: Bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

    Ví dụ, căn nhà được mua trả góp và vẫn đang trong thời hạn trả nợ. Nếu hai vợ chồng chia tài sản khi ly hôn thì có thể thực hiện theo phương án:

    – Người vợ hoặc người chồng sẽ nhận được ngôi nhà và có nghĩa vụ trả số tiền chênh lệch cho người còn lại căn cứ vào các nguyên tắc nêu trên;

    – Hai người hoàn tất việc trả góp, bán căn nhà và chia đôi số tiền có được từ việc bán nhà…

    Đáng lưu ý: Khi thực hiện chia đôi thì phải căn cứ vào các yếu tố đã nêu ở trên.

    Nói tóm lại, việc chia ngôi nhà đang trả góp khi ly hôn trước hết căn cứ vào thỏa thuận của vợ chồng. Nếu hai bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không hợp pháp thì có thể nhờ Tòa án giải quyết theo nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét đến một vài yếu tố đã nêu ở trên.

    5. Sau ly hôn và khi đã chia ngôi nhà mua trả góp cho vợ thì chồng có quyền ở lại ngôi nhà đó nữa hay không?

    Tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

    Điều 63. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn

    Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

    Sau ly hôn và khi đã chia ngôi nhà mua trả góp cho vợ thì chồng vẫn có quyền ở lại ngôi nhà đó. Nếu gặp khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Khi ly hôn thì ngôi nhà mua trả góp của hai vợ chồng sẽ được chia như thế nào? (2022)

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Việc đơn phương ly hôn trong trường hợp chồng mất tích thì phần tài sản chung của vợ chồng giải quyết như thế nào? (2022)

    Việc đơn phương ly hôn trong trường hợp chồng mất tích thì phần tài sản chung của vợ chồng giải quyết như thế nào? (2022)

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Có thể đăng ký kết hôn với người khác khi chồng hoặc vợ mất tích hay không?

    Căn cứ theo Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình như sau:

    Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    2. Cấm các hành vi sau đây:

    a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

    b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

    c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;…

    Theo đó, pháp luật nghiêm cấm việc kết hôn giữa người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

    Nếu muốn kết hôn với người khác bạn phải làm thủ tục đơn phương ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

    Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

    1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
    3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

    Theo quy định trên, nếu chồng bạn được tòa án tuyên bố là mất tích thì bạn có thể thực hiện thủ tục xin đơn phương ly hôn.

    3. Khi nào thì Tòa án mới có thể tuyên bố một người mất tích?

    Căn cứ Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc tuyên bố mất tích như sau:

    Điều 68. Tuyên bố mất tích

    1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

    Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

    Theo đó, một người được tuyên bố là mất tích khi biệt tích 02 năm trở lên mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết

    Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    4. Trình tự, thủ tục ly hôn với người đã bỏ trốn, mất tích

    Yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích

    Nếu muốn thực hiện thủ tục ly hôn với người mất tích thì trước khi thực hiện thủ tục ly hôn, người có yêu cầu phải thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích. Thủ tục này cũng giống như một yêu cầu khởi kiện dân sự bình thường với những bước cơ bản sau:

    Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ

    Người có yêu cầu chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ bao gồm: giấy tờ nhân thân của người khởi kiện, người bị khởi kiện (nếu có); tài liệu chứng cứ về việc người bị khởi kiện không có mặt tại nơi cư trú dù đã áp dụng các biện pháp thông báo tìm kiếm, niêm yết công khai;…

    Bước 2: Người có yêu cầu nộp đơn khởi kiện.

    Sau khi chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích thì người có yêu cầu nộp đơn cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết. Việc nộp đơn có thể thực hiện bằng cách nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc nộp gián tiếp qua đường bưu điện.

    Bước 3: Tòa án ra thông báo.

    Sau khi nhận được đơn khởi kiện, tùy từng trường hợp mà Tòa án sẽ ra thông báo bổ sung tài liệu chứng cứ, thông báo nộp tạm ứng án phí để thụ lý vụ án hoặc thông báo chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

    Bước 4: Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật.

    Tòa án tiến hành xem xét, xác minh, thực hiện các thủ tục thông báo tìm kiếm người mất tích.

    Bước 5: Ra quyết định tuyên bố một người mất tích.

    Sau khi đã thực hiện hết các thủ tục thông báo tìm kiếm, niêm yết công khai mà vẫn không có tin tức của người mất tích thì Tòa án ra Quyết định tuyên bố người đó mất tích.

    Sau khi có quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích thì mới có thể chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, thực hiện các thủ tục cần thiết để yêu cầu ly hôn với người mất tích.

    Thực hiện thủ tục ly hôn với người mất tích

    nộp đơnBước 1: Chuẩn bị hồ sơ.

    Người có yêu cầu chuẩn bị một bộ hồ sơ ly hôn đầy đủ kèm theo đơn ly hôn để nộp cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền, hồ sơ bao gồm:

    • Đơn xin ly hôn với người mất tích;
    • Chứng minh nhân dân, căn cước công dân của hai vợ chồng;
    • Sổ hộ khẩu hoặc tài liệu chứng cứ thể hiện nơi cư trú cuối cùng của hai vợ chồng;
    • Đăng ký kết hôn bản chính hoặc trích lục kết hôn;
    • Giấy khai sinh con chung trong trường hợp vợ chồng có con chung;
    • Các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu chia tài sản, nợ chung của vợ chồng;
    • Các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu nuôi con của các bên;
    • Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích.

    Bước 2: Nộp hồ sơ.

    Sau khi chuẩn bị được đầy đủ hồ sơ ly hôn với người mất tích thì người có yêu cầu nộp đơn cho Tòa án. Việc nộp đơn cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền có thể được thực hiện bằng phương thức gián tiếp (qua đường bưu điện, chuyển phát nhanh) hoặc nộp trực tiếp tại Tòa án.

    Bước 3: Tòa án tiếp nhận và thụ lý hồ sơ.

    Sau khi nhận được hồ sơ ly hôn với người mất tích, trong thời hạn 08 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, thẩm phán được phân công ra một trong các thông báo sau:

    • Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
    • Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án;
    • Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
    • Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

    Bước 4: Tham gia các giai đoạn tố tụng tại Tòa án.

    Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án tiến hành các bước tiếp theo để giải quyết vụ án:

    Tổ chức buổi lấy lời khai của đương sự: Tại buổi làm việc này thẩm phán và thư ký Tòa án phụ trách vụ án sẽ lấy lời khai của đương sự, lấy ý kiến, quan điểm của những người liên quan về yêu cầu ly hôn với người mất tích của người khởi kiện.

    Tiến hành các hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ: Mục đích là để  làm rõ yêu cầu của người khởi kiện, có đủ căn cứ để giải quyết vụ án.

    Bước 5: Đưa vụ án ra xét xử.

    Trong thời hạn từ 2 đến 6 tháng kể từ thời điểm thụ lý, Tòa án sau khi đã thực hiện các qúa trình tố tụng và sau khi các bên đã đưa ra quan điểm của mình, cung cấp đầy đủ tài liệu chứng cứ thì Tòa đưa vụ án ra xét xử.

    5. Việc đơn phương ly hôn trong trường hợp chồng hoặc vợ bị Tòa án tuyên bố mất tích thì phần tài sản chung của vợ chồng giải quyết như thế nào?

    Căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

    Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

    1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

    a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

    b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

    3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

    4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

    Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

    Và tại Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích như sau:

    Điều 69. Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích

    Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Bộ luật này.

    Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

    Như vậy, nếu Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đơn phương ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý.

    Trường hợp không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Việc đơn phương ly hôn trong trường hợp chồng mất tích thì phần tài sản chung của vợ chồng giải quyết như thế nào? (2022)

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Chồng thường xuyên đánh đập vợ thì bị xử lý như thế nào? Vợ có thể ly hôn được không? (2022)

    Chồng thường xuyên đánh đập vợ thì bị xử lý như thế nào? Vợ có thể ly hôn được không? (2022)

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007

    Bộ luật Hình sự 2015

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    Nghị định 144/2021/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình

    2. Chồng ngược đãi, đánh đập vợ thì có vi phạm pháp luật không?

    Căn cứ Điều 8 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định về những hành vi bị nghiêm cấm như sau:

    Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm

    1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.

    2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.

    3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.

    4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.

    5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.

    6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật.

    7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.”

    Theo đó, việc người chồng ngược đãi, đánh đập người vợ là hành vi vi phạm pháp luật, người thực hiện hành vi này sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

    đánh đập vợCác hành vi bạo lực gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật này như sau:

    Điều 2. Các hành vi bạo lực gia đình

    1. Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

    a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

    b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

    c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

    d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

    đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;

    e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

    g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

    h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

    i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

    Theo đó, hành vi bạo lực gia đình bao gồm các hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 2 nêu trên, trong đó có hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.

    3. Chồng ngược đãi, đánh đập vợ thì bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào?

    Căn cứ Điều 52 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình như sau:

    Điều 52. Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình

    1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

    2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

    b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

    3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

    a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;

    b) Buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với hành vi quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều này.

    Theo đó, nếu người chồng đánh đập gây thương tích cho vợ thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Trong trường hợp sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho người vợ thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

    Đồng thời buộc người chồng phải xin lỗi công khai khi người vợ có yêu cầu và buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

    4. Chồng thường xuyên đánh đập gây thương tích người vợ đang mang thai thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

    Căn cứ khoản 2 Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình như sau:

    Điều 185. Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình

    1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;

    b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

    a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

    b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.

    Theo đó, trường hợp một người có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 185 nêu trên. Nếu người phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 185 thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    5. Có thể ly hôn do chồng thường xuyên bị đánh đập được không?

    Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, hôn nhân có mục đích là xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Khi mục đích của hôn nhân không đạt được, hai bên có quyền yêu cầu tòa cho ly hôn.

    Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

    Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

     1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

     2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

     3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

    Như vậy, căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật HN&GĐ, Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn trong trường hợp có căn cứ về việc cuộc hôn nhân của hai vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do:

    – Một trong hai người có hành vi bạo lực gia đình;

    – Vợ hoặc chồng vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng (yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, sống chung với nhau trừ trường hợp có thỏa thuận khác)…

    Để có căn cứ cho yêu cầu ly hôn, người vợ cần có chứng cứ chứng minh hành vi bạo lực của chồng như ảnh, clip, người làm chứng hoặc giám định thương tật của bản thân.

    Để được Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương, người yêu cầu phải chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ như sau:

    – Đơn xin ly hôn đơn phương được ban hành theo mẫu;

    – Đăng ký kết hôn (bản chính); nếu không có thì có thể xin cấp bản sao…

    – Bản sao có chứng thực Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân… của vợ và chồng; sổ hộ khẩu của gia đình;

    – Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con nếu có con chung;

    – Nếu có tài sản chung và yêu cầu phân chia tài sản chung khi ly hôn thì chuẩn bị giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung này…

    Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, khi yêu cầu ly hôn đơn phương, người có yêu cầu phải nộp đơn đến Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc.

    Đồng thời, tại khoản 1 Điều 35 BLTTDS, những tranh chấp về hôn nhân và gia đình sẽ do Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

    Tuy nhiên, nếu những vụ án ly hôn này có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì Tòa án cấp huyện không có thẩm quyền mà thuộc về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh(Căn cứ Điều 37 BLTTDS).

    Do đó, nếu hai công dân Việt Nam ly hôn trong nước thì nộp đơn ly hôn đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bị yêu cầu ly hôn đơn phương cư trú hoặc làm việc. Nếu có yếu tố nước ngoài sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện.

    Thủ tục đơn phương ly hôn mới nhất gồm các bước như sau:

    Bước 1: Chuẩn bị và nộp hồ sơ

    Vợ hoặc chồng phải chuẩn bị các loại giấy tờ đã nêu ở trên. Ngoài ra, nếu có chứng cứ chứng minh vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình, không thực hiện nghĩa vụ… thì cũng phải cung cấp cho Tòa án.

    Sau khi chuẩn bị đầy đủ hồ sơ cần thiết thì người yêu cầu nộp tại Tòa án có thẩm quyền đã nêu ở trên.

    Bước 2: Tòa án xem xét và giải quyết

    – Sau khi nhận được đơn từ nguyên đơn, Tòa án phải xem xét có thụ lý đơn hay không sau 05 ngày làm việc.

    – Nếu hồ sơ hợp lệ thì Tòa án gửi thông báo cho nguyên đơn đóng tiền tạm ứng án phí, Tòa án ra quyết định thụ lý đơn ly hôn đơn phương từ thời điểm nguyên đơn nộp biên lai đã đóng tiền tạm ứng án phí (Điều 191 và Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

    – Hòa giải: Thủ tục hòa giải tại Tòa án là thủ tục bắt buộc trước khi đưa vụ án ra xét xử trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

    Nếu hòa giải thành: Tòa án lập biên bản hòa giải thành và sau 07 ngày mà các đương sự không thay đổi về ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải thành và quyết định này có hiệu lực ngay và không được kháng cáo kháng nghị.

    Nếu hòa giải không thành: Tòa án cũng phải lập biên bản hòa giải không thành sau đó ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

    – Phiên tòa sơ thẩm: Sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử các bên được Tòa án gửi giấy triệu tập và được thông báo rõ về thời gian, địa điểm mở phiên Tòa sơ thẩm.

    Bước 3: Ra bản án ly hôn

    Nếu không hòa giải thành và xét thấy đủ điều kiện để giải quyết ly hôn thì Tòa án sẽ ra bản án chấm dứt quan hệ hôn nhân của hai vợ chồng.

    không có mâu thuẫnĐể giải quyết ly hôn đơn phương nhanh chóng:

    Thứ nhất, phải có lý do và bằng chứng ly hôn để Toà án chấp nhận đơn ly hôn đơn phương. Cụ thể:

    – Một trong hai người vợ hoặc chồng phải có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng như chung thuỷ, yêu thương nhau…

    – Chính hành vi nêu trên của vợ chồng khiến cuộc hôn nhân lâm vào tình trạng nghiêm trọng, vợ chồng không thể chung sống với nhau.

    Thứ hai, phải chuẩn bị đủ hồ sơ ly hôn. Khi hồ sơ ly hôn đủ thì không mất thêm thời gian để sửa đổi, bổ sung. Theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án chỉ cho vợ chồng sửa đổi, bổ sung trong thời hạn không quá 01 tháng hoặc gia hạn thêm không quá 15 ngày nếu thuộc trường hợp đặc biệt.

    Thứ ba, có mặt khi được Toà triệu tập bởi theo khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự:

    – Vắng mặt ở lần triệu tập thứ nhất, Toà án sẽ hoãn phiên toà trừ trường hợp có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

    – Vắng mặt ở lần triệu tập thứ hai, Toà án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án vì coi như nguyên đơn từ bỏ yêu cầu khởi kiện.

    Do đó, nếu không có đơn xét xử vắng mặt hoặc vắng mặt khi Toà án triệu tập hợp lệ thì thời gian giải quyết sẽ bị kéo dài do phiên toà bị hoãn xét xử.

    Thứ tư, Làm đơn yêu cầu Toà án không tổ chức hoà giải. Khi đó, theo Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án ly hôn đơn phương sẽ không hoà giải. Do đó, thời gian từ lúc thụ lý vụ án đến khi xét xử tại Toà án sẽ rút ngắn hơn so với bình thường.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Chồng thường xuyên đánh đập vợ thì bị xử lý như thế nào? Vợ có thể ly hôn được không? (2022)

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Hôn nhân đồng giới có được pháp luật Việt Nam thừa nhận không? (2022)

    Hôn nhân đồng giới có được pháp luật Việt Nam thừa nhận không? (2022)

    Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa những người có cùng giới tính về sinh học. Đó có thể là cuộc sống chung giữa hai người là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ với nhau. Hôn nhân giữa những người này xuất phát từ tình yêu đồng tính. Họ tìm thấy ở những người cùng giới tính như mình sự yêu thương, sự đồng cảm, ấm áp và mong muốn cùng nhau về chung một nhà.

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Bộ luật Dân sự 2015

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Hôn nhân đồng giới có được pháp luật Việt Nam thừa nhận không?

    hôn nhân đồng giớiCăn cứ theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:

    Điều 8. Điều kiện kết hôn

    1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

    b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

    c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

    d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

    2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

    Như vậy, thấy rằng hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Và kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng để tạo nên một gia đình. Trong đó, một cuộc hôn nhân hợp pháp là phải kết hôn theo đúng quy định của pháp luật và được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.

    Đặc biệt, cũng tại điều luật này, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Do đó, các cặp đôi đồng tính hiện nay vẫn chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận là một cuộc hôn nhân hợp pháp.

    Khi đó, hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sẽ không tồn tại và không được pháp luật thừa nhận nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; cấp dưỡng; thừa kế; tài sản chung vợ chồng…

    – Về nhân thân: Giữa hai người đồng tính không có ràng buộc về mặt pháp lý, không được cấp đăng ký kết hôn, không được công nhận là vợ, chồng hợp pháp. Bởi vậy, con cái, cấp dưỡng, quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng… không tồn tại;

    – Về quan hệ tài sản: Vì không có quan hệ vợ chồng nên không áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng được quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nếu phát sinh tranh chấp, tài sản không được chia theo nguyên tắc chung về tài sản chung vợ, chồng.

    3. Hôn nhân đồng giới có còn bị pháp luật nghiêm cấm hay không?

    Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

    Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

    2. Cấm các hành vi sau đây:

    a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

    b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

    c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

    d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

    đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

    e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

    g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

    h) Bạo lực gia đình;

    i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

    3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

    Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.”

    Như vậy, theo quy định trên hiện nay thì pháp luật không nghiêm cấm hôn nhân đồng tính, pháp luật chỉ không thừa nhận mà thôi.

    4. Đi chuyển đổi giới tính thì có được kết hôn với người có cùng giới tính trước khi chuyển giới hay không?

    Theo Nghị định 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính ngày 05/08/2008 quy định việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác.

    Đặc biệt văn bản này cũng xác định các hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể trong nội dung Điều 4. Hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện các nội dung sau đây: “1. Thực hiện việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính; 2. Thực hiện việc xác định lại giới tính khi chưa được phép của Bộ Y tế hoặc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Điều 8 Nghị định này; 3. Tiết lộ thông tin về việc xác định lại giới tính của người khác; 4. Phân biệt đối xử đối với người đã xác định lại giới tính”.

    Tuy nhiên cho đến khi Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thì đã thừa nhận quyền xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính. Đây được xem là nội dung quan trọng đối với nhóm cộng đồng người đồng tính và quy định cụ thể tại Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền xác định lại giới tính.

    Ngoài ra trong Bộ luật dân sự năm 2015 cũng xác định rõ về nội dung chuyển đổi giới tính, nội dung cụ thể được quy định tại Điều 37. Chuyển đổi giới tính, theo đó “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.

    Theo khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

    Điều 8. Điều kiện kết hôn

    1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

    b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

    c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

    d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

    2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”

    Căn cứ quy định này, sau khi chuyển đổi giới tính, cá nhân phải đăng ký thay đổi hộ tịch. Sau đó, người này sẽ có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi. Một trong số các quyền nhân thân là quyền đăng ký kết hôn.

    Như vậy, sau khi chuyển giới, đăng ký thay đổi hộ tịch thì người chuyển giới được quyền đăng ký kết hôn với người khác giới tính đã chuyển và quan hệ hôn nhân này sẽ được pháp luật công nhận.

    5. Pháp luật Việt Nam có công nhận quyết định kết hôn đồng giới của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không?

    Căn cứ Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam được quy định như sau:

    Điều 423. Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

    1. Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài sau đây được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam:

    a) Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài được quy định tại điều ước quốc tế mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

    b) Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại;

    c) Bản án, quyết định dân sự khác của Tòa án nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định công nhận và cho thi hành.

    2. Quyết định về nhân thân, hôn nhân và gia đình của cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài cũng được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này.

    Theo đó, quyết định về nhân thân, hôn nhân và gia đình của các quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt nam.

    Căn cứ Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài như sau:

    Điều 425. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài

    1. Người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài, nếu cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài có tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu.

    2. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.

    3. Đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam không công nhận bản án, quyết định dân sự của của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.

    Theo đó, người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án công nhận quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài có hiệu lực tại Việt Nam

    Căn cứ 439 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như sau:

    Điều 439. Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

    1. Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không đáp ứng được một trong các điều kiện để được công nhận quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

    2. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.

    3. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên tòa của Tòa án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ hoặc văn bản của Tòa án nước ngoài không được tống đạt cho họ trong một thời hạn hợp lý theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án nước ngoài đó để họ thực hiện quyền tự bảo vệ.

    4. Tòa án nước đã ra bản án, quyết định không có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó theo quy định tại Điều 440 của Bộ luật này.

    5. Vụ việc dân sự này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ việc, Tòa án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ việc hoặc đã có bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước thứ ba đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.

    6. Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật thi hành án dân sự của Việt Nam.

    7. Việc thi hành bản án, quyết định đã bị hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành tại nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.

    8. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Theo khoản 8 Điều này, nếu bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì bản án, quyết định này sẽ không được công nhận.

    Như vậy, quyết định kết hôn thuộc đối tượng được xem xét công nhận tại Việt Nam nhưng hôn nhân đồng giới không được pháp luật Việt Nam công nhận.

    Do đó, căn cứ theo quy định nêu trên thì Tòa án Việt Nam sẽ không công nhận quyết định kết hôn đồng giới của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Hôn nhân đồng giới có được pháp luật Việt Nam thừa nhận không? (2022)

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Ly hôn với người mất tích như thế nào? (2022)

    Ly hôn với người mất tích như thế nào? (2022)

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Khi nào Toà giải quyết ly hôn với người mất tích?

    ly hôn với người mất tíchLy hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi những mâu thuẫn giữa vợ chồng trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ly hôn được công nhận theo bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

    Căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp một bên mất tích, bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết đơn phương ly hôn. Việc ly hôn có thể do hai bên đồng thuận, hoặc một bên cũng có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

    Căn cứ khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia đình, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được Tòa án giải quyết ly hôn, dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.

    3. Quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích

    Theo Điều 68 Bộ Luật Dân sự 2015, một người được tuyên bố là mất tích khi :

    • Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, dù đã áp dụng các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật nhưng không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
    • Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó;
    • Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng;
    • Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    Theo Điều 64 Bộ luật Dân sự 2015, việc thông báo tìm kiếm người mất tích được thực hiện như sau:

    • Khi một người biệt tích 06 tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
    • Có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú.

    Khi người mất tích trở về thì có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Dân sự 2015, như sau:

    • Người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan.
    • Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
    • Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.

    Như vậy, nếu một người đã biệt tích 02 năm liền trở lên, đã tìm kiếm nhưng không có bất cứ thông tin gì về việc người đó còn sống hay đã chết thì người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích.

    4. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết ly hôn với người mất tích

    Theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình như ly hôn thì Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu không biết nơi cư trú của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết ly hôn.

    5. Trình tự, thủ tục ly hôn với người mất tích

    Yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích

    Nếu muốn thực hiện thủ tục ly hôn với người mất tích thì trước khi thực hiện thủ tục ly hôn, người có yêu cầu phải thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích. Thủ tục này cũng giống như một yêu cầu khởi kiện dân sự bình thường với những bước cơ bản sau:

    Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ

    Người có yêu cầu chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ bao gồm: giấy tờ nhân thân của người khởi kiện, người bị khởi kiện (nếu có); tài liệu chứng cứ về việc người bị khởi kiện không có mặt tại nơi cư trú dù đã áp dụng các biện pháp thông báo tìm kiếm, niêm yết công khai;…

    Theo quy định tại Điều 362 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích phải đầy đủ các nội dung sau đây:

    • Ngày, tháng, năm viết đơn;
    • Tên toà án có thẩm quyền giải quyết đơn;
    • Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
    • Những vấn đề cụ thể yêu cầu toà án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự đó;
    • Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có;
    • Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu…

    Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ vào phần cuối đơn.

    Bước 2: Người có yêu cầu nộp đơn khởi kiện.

    Sau khi chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích thì người có yêu cầu nộp đơn cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết. Việc nộp đơn có thể thực hiện bằng cách nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc nộp gián tiếp qua đường bưu điện.

    Theo quy định tại Điều 387 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

    1. Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.

    2. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm; trường hợp trước đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao quyết định đó.

    Bước 3: Tòa án ra thông báo.

    Sau khi nhận được đơn khởi kiện, tùy từng trường hợp mà Tòa án sẽ ra thông báo bổ sung tài liệu chứng cứ, thông báo nộp tạm ứng án phí để thụ lý vụ án hoặc thông báo chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

    Bước 4: Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật.

    Tòa án tiến hành xem xét, xác minh, thực hiện các thủ tục thông báo tìm kiếm người mất tích.

    Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích.

    Nội dung thông báo bao gồm các nội dung sau:

    1. Ngày, tháng, năm ra thông báo.

    2. Tên Tòa án ra thông báo.

    3. Số và ngày, tháng, năm của quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.

    4. Tên, địa chỉ của người yêu cầu Tòa án thông báo.

    5. Họ, tên và ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi của người cần tìm kiếm và địa chỉ cư trú của người đó trước khi biệt tích.

    6. Địa chỉ liên hệ của cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu người cần tìm kiếm biết được thông báo hoặc người khác có được tin tức về người cần tìm kiếm.

    Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thông báo này phải được đăng trên một trong các báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp, Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (nếu có) và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.

    Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.

    Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.

    Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo quy định thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

    Bước 5: Ra quyết định tuyên bố một người mất tích.

    Sau khi đã thực hiện hết các thủ tục thông báo tìm kiếm, niêm yết công khai mà vẫn không có tin tức của người mất tích thì Tòa án ra Quyết định tuyên bố người đó mất tích.

    Sau khi có quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích thì mới có thể chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, thực hiện các thủ tục cần thiết để yêu cầu ly hôn với người mất tích.

    Thực hiện thủ tục ly hôn với người mất tích

    Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ.

    Người có yêu cầu chuẩn bị một bộ hồ sơ ly hôn đầy đủ kèm theo đơn ly hôn để nộp cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền, hồ sơ bao gồm:

    • Đơn xin ly hôn với người mất tích;
    • Chứng minh nhân dân, căn cước công dân của hai vợ chồng;
    • Sổ hộ khẩu hoặc tài liệu chứng cứ thể hiện nơi cư trú cuối cùng của hai vợ chồng;
    • Đăng ký kết hôn bản chính hoặc trích lục kết hôn;
    • Giấy khai sinh con chung trong trường hợp vợ chồng có con chung;
    • Các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu chia tài sản, nợ chung của vợ chồng;
    • Các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu nuôi con của các bên;
    • Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích.

    Bước 2: Nộp hồ sơ.

    Sau khi chuẩn bị được đầy đủ hồ sơ ly hôn với người mất tích thì người có yêu cầu nộp đơn cho Tòa án. Việc nộp đơn cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền có thể được thực hiện bằng phương thức gián tiếp (qua đường bưu điện, chuyển phát nhanh) hoặc nộp trực tiếp tại Tòa án.

    Bước 3: Tòa án tiếp nhận và thụ lý hồ sơ.

    Sau khi nhận được hồ sơ ly hôn với người mất tích, trong thời hạn 08 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, thẩm phán được phân công ra một trong các thông báo sau:

    • Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
    • Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án;
    • Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
    • Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

    Bước 4: Tham gia các giai đoạn tố tụng tại Tòa án.

    Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án tiến hành các bước tiếp theo để giải quyết vụ án:

    Tổ chức buổi lấy lời khai của đương sự: Tại buổi làm việc này thẩm phán và thư ký Tòa án phụ trách vụ án sẽ lấy lời khai của đương sự, lấy ý kiến, quan điểm của những người liên quan về yêu cầu ly hôn với người mất tích của người khởi kiện.

    Tiến hành các hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ: Mục đích là để  làm rõ yêu cầu của người khởi kiện, có đủ căn cứ để giải quyết vụ án.

    Bước 5: Đưa vụ án ra xét xử.

    Trong thời hạn từ 2 đến 6 tháng kể từ thời điểm thụ lý, Tòa án sau khi đã thực hiện các quá trình tố tụng và sau khi các bên đã đưa ra quan điểm của mình, cung cấp đầy đủ tài liệu chứng cứ thì Tòa đưa vụ án ra xét xử.

    6. Quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân sau khi ly hôn với người bị tuyên bố mất tích

    Quan hệ tài sản:

    Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích  của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

    Quan hệ nhân thân:

    Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

    Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn) thì khi người mất tích trở về, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Ly hôn với người mất tích như thế nào? (2022)

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Ly hôn khi đương sự vắng mặt có được không? (2022)

    Ly hôn khi đương sự vắng mặt có được không? (2022)

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Ly hôn khi đương sự vắng mặt được hiểu như thế nào?

    Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

    Hiện có 02 hình thức ly hôn là ly hôn thuận tình và đơn phương ly hôn.

    Trong khi thuận tình là việc hai vợ chồng thống nhất đi đến ly hôn, đã thỏa thuận được các vấn đề về nuôi con, cấp dưỡng, tài sản chung vợ chồng… thì đơn phương là việc một bên yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.

    Thông thường ly hôn đơn phương sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn hơn so với thuận tình ly hôn bởi vì thuận tình ly hôn đã có sự thống nhất đi và chỉ chờ bản án, quyết định của Tòa án tuyên ly hôn còn ly hôn đơn phương do chỉ có yêu cầu từ một bên nên sẽ có những việc như bên còn lại không hợp tác trong đó có trường hợp vắng mặt không tham gia phiên tòa vì những vấn đề nào đó:

    – Không tham gia phiên hòa giải và phiên tòa để giải quyết việc ly hôn;

    – Bỏ đi khỏi nơi cư trú;

    – Mất tích không thể liên lạc được;

    – Vì ốm đau, bệnh tật… nên không thể tham gia giải quyết ly hôn…

    Ly hôn, không được ủy quyền cho người khác. Bởi quyền ly hôn là quyền nhân thân của mỗi người nên không thể chuyển giao cho người khác được. Do đó, nếu muốn giải quyết ly hôn, vợ hoặc chồng hoặc cả vợ chồng đều phải trực tiếp tham gia mà không được ủy quyền cho người khác làm thay mình.

    Đây cũng là quy định nêu tại khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

    Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì họ là người đại diện.

    Căn cứ quy định trên, vợ, chồng không thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Tuy nhiên, nếu nộp đơn ly hôn, nộp án phí … thì vẫn có thể ủy quyền được.

    3. Giải quyết ly hôn thuận tình khi đương sự vắng mặt

    Thứ nhất, thuận tình ly hôn được giải thích và hướng dẫn rõ tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

    Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn“.

    Điều 367. Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự

    1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.2. Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án.

    2. Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án.

    Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.

    3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.

    Theo quy định trên thì trong phiên họp giải quyết việc dân sự thì người yêu cầu ly hôn phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án. Trường hợp người yêu cầu ly hôn vắng mặt lần thứ nhất thì Toà án hoãn phiên họp, trừ trường hợp có đơn xin ly hôn vắng mặt gửi Toà án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ.

    Trường hợp người yêu cầu ly hôn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.

    4. Giải quyết đơn phương ly hôn khi đương sự vắng mặt

    Khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

    Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

    Tại phiên làm việc lần đầu trong thủ tục ly hôn đơn phương như hòa giải lần một, phiên xét xử lần một,… mà ít nhất một bên liên quan không có mặt và không có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án sẽ hoãn phiên làm việc và mở lại theo đúng quy định pháp luật.

    Tại phiên làm việc lần hai, sự vắng mặt của các bên chỉ được cho phép trong một số trường hợp nhất định nếu không thuộc vào trường hợp đó mà vẫn vắng mặt sẽ dẫn tới hệ quả như sau:

    Đối với nguyên đơn trong thủ tục ly hôn đơn phương:

    Nguyên đơn ở đây được hiểu là người có yêu cầu và làm đơn xin ly hôn đơn phương gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Pháp luật hiện nay không khuyến khích nguyên đơn vắng mặt tại Tòa án nhưng có ghi nhận một số trường hợp có thể thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt. Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận vấn đề này như sau:

    2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:

     a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

    Theo quy định nói trên, để có thể vắng mặt nhiều lần khi thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương, nguyên đơn cần có văn bản gửi đến Tòa án đang giải quyết vụ việc hoặc phải chứng minh được mình đang rơi vào những tình huống, sự kiện khách quan và không thể có mặt theo đúng lịch làm việc.

    Nếu không thuộc các trường hợp của quy định này, nguyên đơn sẽ bị coi là từ bỏ yêu cầu khởi kiện của mình (trong thủ tục ly hôn đơn phương có thể hiểu theo hướng không yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nữa) và vụ án sẽ bị đình chỉ giải quyết.

    Đối với bị đơn trong thủ tục ly hôn đơn phương:

    Bị đơn trong thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt có thể được hiểu đơn giản là người bị kiện (bên vợ/chồng còn lại trong quan hệ hôn nhân).

    Trường hợp người này không có yêu cầu độc lập thì việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng quá nhiều đến quá trình và kết quả giải quyết thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt, cụ thể điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

    Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.

    Theo cơ chế này, người bị kiện vắng mặt tại phiên làm việc lần thứ hai mà không có lý do được quy định trong Luật vụ án sẽ tiếp tục được giải quyết mà không cần sự có mặt của họ.

    Tuy nhiên, cần làm rõ là sự vắng mặt của bị đơn chỉ nên được hiểu theo hướng bị đơn không có mặt tại Tòa án mà vẫn cư trú tại địa phương nơi Tòa án đang giải quyết vụ việc.

    Nếu bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú và vắng mặt trong quá trình thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương thì Tòa án sẽ phải đình chỉ giải quyết vụ việc và khi đó cách giải quyết vụ việc cần có sự thay đổi.

    Như vậy, trong một số trường hợp và đối với một số đối tượng cụ thể có thể thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt.

    Tuy nhiên, khi muốn ly hôn đơn phương vắng mặt, người có yêu cầu cần tuân thủ những quy định liên quan để không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án và quyền lợi bản thân.

    Thủ tục đơn phương ly hôn khi bị đơn vắng mặt

    Khi thực hiện, các bạn cần lưu ý các bước chủ yếu để thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt bao gồm:

    Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ ly hôn đơn phương

    Khi thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt các bạn cần chuẩn bị đơn ly hôn theo đúng mẫu và có đầy đủ nội dung của một đơn khởi kiện. Đồng thời, bổ sung các giấy tờ kèm theo đơn ly hôn gồm:

    • Chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu của hai vợ chồng (Bản chứng thực);
    • Đăng ký kết hôn (Bản chính hoặc bản trích lục);
    • Sổ hộ khẩu của hai vợ chồng (Bản chứng thực);
    • Giấy khai sinh của các con chung (Bản sao);
    • Giấy tờ về tài sản chung vợ chồng nếu có tranh chấp;

    Trường hợp bị đơn đang sinh sống, làm việc khác địa chỉ trên sổ hộ khẩu người làm thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt cần bổ sung giấy tờ chứng minh nơi cư trú của bị đơn.

    Bước 2: Nộp hồ sơ đến Tòa án có thẩm quyền

    Sau khi chuẩn bị đầy đủ hồ sơ ly hôn đơn phương theo quy định pháp luật, người làm hồ sơ ly hôn đơn phương có thể nộp hồ sơ đến Tòa án bằng các cách sau:

    – Mang hồ sơ đến nộp trực tiếp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết thủ tục ly hôn đơn phương vắng mặt;

    – Gửi hồ sơ qua dịch vụ bưu chính đến đúng địa chỉ trụ sở Tòa án;

    Một phương thức khác được ghi nhận tại quy định pháp luật nhưng trên thực tế ít được sử dụng trong việc gửi hồ sơ ly hôn đơn phương là thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

    Sau khi tiếp nhận hồ sơ ly hôn đơn phương, Tòa án cần có thời gian để kiểm tra và phân công nhân sự để xử lý vụ việc nên các bạn cần chờ một khoảng thời gian để nhận được thông báo từ phía Tòa án.

    Bước 3: Thụ lý vụ án

    Khi nộp hồ sơ đến Tòa án, trong thời hạn 03 ngày làm việc một Thẩm phán sẽ được phân công để phụ trách giải quyết đơn ly hôn đơn phương. Nếu hồ sơ ly hôn đơn phương của các bạn đã đầy đủ giấy tờ Tòa án sẽ thông báo để người làm đơn nộp tiền tạm ứng án phí.

    Từ thời điểm được ghi nhận tại thông báo của Tòa án, người làm đơn xin ly hôn đơn phương phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn 07 ngày và nộp lại biên lai cho Tòa án để vụ án được thụ lý, giải quyết. Nếu quá thời hạn nói trên, người xin ly hôn đơn phương không nộp tiền theo đúng quy định và không chứng minh được lý do chính đáng thì Tòa án vẫn trả lại hồ sơ ly hôn.

    Bước 4: Tham gia các hoạt động để chuẩn bị xét xử vụ án ly hôn đơn phương

    Đối với vụ án ly hôn đơn phương thời gian chuẩn bị xét xử sẽ kéo dài 04 tháng kể từ ngày vụ án được thụ lý, thời gian này có thể được gia hạn không quá 02 tháng đối với các vụ việc phức tạp.

    Trong khoảng thời gian này, các bên và đặc biệt là người làm đơn xin ly hôn cần hợp tác với Tòa án để thực hiện công tác xác minh, làm rõ các tình tiết của vụ việc, cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đồng thời, các bên sẽ phải tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên hòa giải bắt buộc theo quy định pháp luật.

    Thời gian nói trên được pháp luật quy định cụ thể nhưng trên thực tế, tùy thuộc vào mức độ tranh chấp một vụ việc ly hôn đơn phương có thể kéo dài hơn. Bên cạnh đó, số lần các đương sự có mặt làm việc tại Tòa án theo lịch thông báo của Tòa án cũng khá nhiều. Các phát sinh này bắt nguồn từ việc Thẩm phán có thể mời các bên hòa giải nhiều lần nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng nói chuyện, hòa giải với nhau hoặc các bên không có mặt khiến phiên làm việc bị hoãn, phải mở lại…

    Bước 4: Xét xử vụ án ly hôn đơn phương

    Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án sẽ mở phiên Tòa trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.

    Như vậy, theo quy trình trên các bên trong quá trình ly hôn đơn phương sẽ phải có mặt làm việc việc tại Tòa án khá nhiều lần kể từ khi nộp hồ sơ đến khi vụ án được xét xử. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của các bên nhưng đương sự, đặc biệt là người làm đơn khởi kiện cần có mặt để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Ly hôn khi đương sự vắng mặt có được không? (2022).

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Anh Hòa và chị Yến vốn là bạn cùng học chung thời phổ thông với nhau. Theo ý nguyện của gia đình họ đã trở thành vợ chồng sau một lễ cưới với đủ các nghi thức truyền thống được tiến hành vào ngày 20/3/1986.

    Cuộc sống chung của anh Hòa và chị Yến sau khi cưới rất hòa thuận, hạnh phúc. Do yêu cầu công việc nên đến tháng 6/1995 anh Hòa chuyển đến sinh sống tại một nơi rất xa nhà. Tại đây, anh phát sinh tình cảm với một chị đồng nghiệp là Dung.

    Tháng 10/1996, khi phát hiện ra mình đang mang thai, chị Dung gây sức ép để anh Hòa kết hôn với mình. Ngày 30/10/1996, anh Hòa và chị Dung kết hôn với nhau tại ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của chị Dung và được cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận kết hôn.

    Tháng 12/2015, khi chị Yến phát hiện ra mối quan hệ giữa anh Hòa và chị Dung, chị không thể tha thứ sự lừa dối của anh Hòa đối với mình. Tháng 01/2016, chị Yến làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hòa. Đồng thời chị Yến cũng làm đơn yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật của anh Hòa và chị Dung.

    Luật sư cho tôi hỏi, pháp luật sẽ xử lý như thế nào đối với trường hợp này?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Căn cứ pháp lý:

    • Khoản 4, Điều 2, Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP;
    • Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;
    • Khoản 1, Điều 51, Luật Hôn nhân gia đình 2014;
    • Điều 53, Luật Hôn nhân gia đình 2014;
    • Điểm a, Khoản 2, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

     

    1. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật

    Căn cứ theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP về Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật:

    Điều 2. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật

    Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình để xem xét, quyết định xử lý việc kết hôn trái pháp luật và lưu ý một số điểm như sau:

    1. “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.

    Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:

    a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;

    b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.

    Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 08-01-2015 chị B đăng ký kết hôn với anh A tại Ủy ban nhân dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị B chưa đủ 18 tuổi (ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015), như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chị B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực (ngày 01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    1. “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyn quyết định”quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của họ.
    2. “Lừa dối kết hôn”quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
    3. “Người đang có vợ hoặc có chồngquy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.

    5.Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hônquy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ để xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    Ví dụ 1: Trường hợp kết hôn khi một bên bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, nếu sau khi bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì thời điểm đủ điều kiện kết hôn là thời điểm đương sự biết mình bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn nhưng vẫn tiếp tục sống chung như vợ chồng.

    Ví dụ 2: Ngày 15-01-2005, chị B kết hôn với anh A. Đến ngày 15-01-2010, chị B lại kết hôn với anh C. Ngày 25-01-2012, Tòa án có quyết định tuyên bố anh A chết. Ngày 12-6-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị B và anh C.

    Tại phiên họp, chị B và anh đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì chị B và anh phải cung cấp Quyết định của Tòa án tuyên bố anh A đã chết để xác định thời điểm chị B và anh đủ điều kiện kết hôn. Trong trường hợp này, thời điểm chị B và anh có đủ điều kiện kết hôn là thời điểm mà Tòa án xác định anh A chết được ghi trong quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

    Theo đó, Khoản 4 Điều này quy định “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    – Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    – Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    – Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.

    Theo đó, do anh Hòa và chị Yến kết hôn năm 1986 mặc dù chỉ tổ chức lễ cưới theo phương thức truyền thống và chưa đăng ký kết hôn nhưng vẫn được xem là kết hôn hợp pháp. Theo đó, ông Hòa và chị Yến hiện tại được xem là người đang có vợ, chồng.

     

    1. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

    Căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Điều 51, Luật Hôn nhân gia đình 2014 về Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.”

    Theo đó, chị Yến có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn của chị với anh Hòa.

    Hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật

    1. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

    Căn cứ theo quy định tại Điều 53, Luật Hôn nhân gia đình 2014 Tòa án sẽ thụ lý giải quyết yêu cầu của chị Yến theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

    “Điều 53. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

    1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
    2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”

    Trường hợp anh Hòa cũng đồng ý ly hôn với chị Yến, anh Hòa và chị Yến thỏa thuận được với nhau về việc chia tài sản chung của vợ chồng và thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác (các bên không có tranh chấp) thì vụ việc được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn. Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo Điều 55, Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về Thuận tình ly hôn. Cụ thể:

    “Điều 55. Thuận tình ly hôn
    Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”

     

    1. Hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

    Căn cứ theo quy định tại Khoản 5, Điều 397 Luật Tố tụng dân sự 2015 về Hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

    “5. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định.”

    Theo đó, trong trường hợp anh Hòa không đồng ý ly hôn với chị Yến hoặc anh Hòa và chị Yến không thỏa thuận được với nhau về việc chia tài sản chung của vợ chồng và thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác thì Tòa án thụ lý vụ án ly hôn và giải quyết theo quy định.

    Căn cứ theo quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 5 về Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình:

    “2. Cấm các hành vi sau đây:

    ……d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;”

    Và theo Điểm d, Khoản 1, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Điều kiện kết hôn:

    “1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    ….d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.”

    Theo đó, bởi vì chị Yến và anh Hòa đang là vợ chồng hợp pháp (dù không đăng ký kết hôn) nên việc anh Hòa kết hôn với chị Dung là việc kết hôn trái pháp luật do khi kết hôn với chị Dung anh Hòa là người đang có vợ.

     

    1. Những người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật

    Căn cứ tại Điểm a, Khoản 2, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Những người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật:

    “2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:

    a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;”

     

    1. Kết luận:

    Theo đó, bởi vì chị Yến đang là vợ của anh Hòa nên có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật của anh Hòa và chị Dung. Nếu đủ căn cứ Tòa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.

    Như vậy, Tòa án sẽ thụ ý vụ việc ra Bản án ly hôn giải quyết việc ly hôn của anh Hòa và chị Yến, đồng thời hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật của anh Hòa và chị Dung.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hôn nhân và gia đình hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Hành vi Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014?

    Hành vi Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014?

    Hành vi Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn được quy định như thế nào theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014?

    Phùng 18 tuổi, là con trai ông Quyết và bà Ngân. Phùng có tình cảm yêu đương với Hòa, bạn học và cũng là hàng xóm của nhau; biết chuyện tình cảm của đôi trẻ và cũng mong muốn con trai ổn định gia đình, ông Quyết, bà Ngân đã bàn với bố, mẹ của Hòa để tổ chức đám cưới.

    Luật sư cho tôi hỏi, việc làm của ông Quyết, bà Ngân có vi phạm pháp luật không? Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    tảo hôn

    1. Căn cứ pháp lý:

    • Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
    • Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
    • Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
    • Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020
    1. Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về Điều kiện kết hôn:

    “Điều 8. Điều kiện kết hôn

    1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

    b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

    c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

    d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

    2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”

    Theo đó, Điểm a Khoản 1 Điều này quy định điều kiện để nam, nữ kết hôn với nhau phải bao gồm độ tuổi, cụ thể của nam là từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.

    1. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    Trong trường hợp này, nếu ông Quyết, bà Ngân tổ chức đám cưới cho Phùng và Hòa sẽ vi phạm điều cấm quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

    “Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

    1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
    2. Cấm các hành vi sau đây:

    a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

    b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

    c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười đang có chồng, có vợ;

    d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

    đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

    e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

    g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

    h) Bạo lực gia đình;

    i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

    2. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

    Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    3. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.”

    Theo đó, Điểm b Khoản 2 Điều này quy định nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, pháp luật cấm các hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.

    1. Khái niệm tảo hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Tảo hôn theo giải thích tại Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định. Hành vi tảo hôn là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình.

    tảo hôn

    1. Xử phạt vi phạm hành chính đối với Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn

    Bên cạnh đó, hành vi tảo hôn của Phùng và tổ chức tảo hôn của ông Quyết, bà Ngân có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Cụ thể:

    “Điều 58. Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn

    1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
    2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.”

    Như vậy, về hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn bị xử phạt vi phạm hành chính trong 2 trường hợp:

    – Tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn;

    – Hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó.

    Như vậy, chỉ có thể bị xử phạt về hành vi tảo hôn khi Toà án có thẩm quyền đã ra quyết định buộc bên tảo hôn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng với người chưa đủ tuổi kết hôn nhưng vẫn cố ý tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật.

    Trong trường hợp này, ủy ban nhân dân xã không xử phạt bên tảo hôn bằng hình thức cảnh cáo mà phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để các cơ quan, tổ chức đó yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật.

    Khi nào Toà án có quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà bên tảo hôn vẫn tiếp tục chung sống với nhau như vợ chồng thì lúc đó UBND xã mới đủ điều kiện để xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tảo hôn.

    1. Hủy việc kết hôn trái pháp luật

    Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định về Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật như sau:

    Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình để xem xét, quyết định xử lý việc kết hôn trái pháp luật và lưu ý một số điểm như sau:

    1. “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.

    Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:

    a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;

    b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.

    Ví dụ: Chị B sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 08-01-2015 chị B đăng ký kết hôn với anh A tại Ủy ban nhân dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị B chưa đủ 18 tuổi (ngày chị B đủ 18 tuổi là ngày 10-01-2015).

    Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chị B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên vì ngày chị B đăng ký kết hôn Luật hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực (ngày 01-01-2015) nên chị B đã vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    1. “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của họ.
    2. “Lừa dối kết hôn”quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
    3. “Người đang có vợ hoặc có chồng”quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

    c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.

    5. Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn”quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ để xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    Ví dụ 1: Trường hợp kết hôn khi một bên bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    Tuy nhiên, nếu sau khi bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì thời điểm đủ điều kiện kết hôn là thời điểm đương sự biết mình bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn nhưng vẫn tiếp tục sống chung như vợ chồng.

    Ví dụ 2: Ngày 15-01-2005, chị B kết hôn với anh A. Đến ngày 15-01-2010, chị B lại kết hôn với anh C. Ngày 25-01-2012, Tòa án có quyết định tuyên bố anh A chết. Ngày 12-6-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị B và anh C.

    Tại phiên họp, chị B và anh C đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì chị B và anh C phải cung cấp Quyết định của Tòa án tuyên bố anh A đã chết để xác định thời điểm chị B và anh C đủ điều kiện kết hôn. Trong trường hợp này, thời điểm chị B và anh C có đủ điều kiện kết hôn là thời điểm mà Tòa án xác định anh A chết được ghi trong quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

     

    1. Thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

    Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP:

    “Điều 3. Thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

    1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 10 của Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải nộp Giấy chứng nhận kết hôn đối với cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc giấy tờ, tài liệu khác chứng minh đã đăng ký kết hôn; tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

    Trường hợp vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng không cung cấp được Giấy chứng nhận kết hôn do bị thất lạc thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn.

    1. Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định tại khoản 6 Điều 3 và Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình khi việc kết hôn đó đã được đăng ký tại đúng cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn được xác định theo quy định của pháp luật về hộ tịch, pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    Trường hợp nam, nữ đăng ký kết hôn tại đúng cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn mà yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này.

    Trường hợp việc kết hôn được đăng ký tại không đúng cơ quan có thẩm quyền hoặc trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu Tòa án giải quyết thì thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.

    1. Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc kết hôn đăng ký tại không đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết hôn và thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý theo quy định tại Điều 13 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ đối với con; tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.
    2. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.”

     

    8. Truy cứu trách nhiệm hình sự:

    Ngoài ra, hành vi tổ chức tảo hôn còn có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

    “Điều 183. Tội tổ chức tảo hôn
    Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hôn nhân và gia đình hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Một số tình huống về giành quyền nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Một số tình huống về giành quyền nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    2. Quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

    giành quyền nuôi conĐiều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

    – Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    – Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    – Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    3. Quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

    Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

    – Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

    – Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

    a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

    b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

    – Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

    – Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

    – Trong trường hợp có căn cứ về việc người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
    a) Người thân thích;
    b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
    c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
    d) Hội liên hiệp phụ nữ

    Đặc biệt, khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu rõ: Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

    Trong đó, con chỉ được giao cho người giám hộ theo căn cứ tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự khi cha, mẹ bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền với con, cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con, cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự… và có yêu cầu người giám hộ.

    Như vậy, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì cha, mẹ có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

    4. Tình huống minh hoạ

    Tình huống 1

    Xin chào Luật PT. Tôi hiện đang sinh sống cùng bố mẹ và con gái 8 tuổi. Bé là con của tôi và bạn trai tôi, chúng tôi không đăng ký kết hôn và khai sinh cho con theo họ của mẹ. Chúng tôi đã chia tay từ khi bé được 1 tuổi. Nay bạn trai tôi muốn giành lại quyền nuôi con. Cháu bé được đăng ký khai sinh theo họ của tôi thì bạn trai tôi có thể giành lại quyền nuôi con được không?

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Mặc dù cháu bé khai sinh mang họ của bạn nhưng pháp luật không tước bỏ quyền của người cha đối với con.

    Theo khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình, người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.

    Khi có quyết định của Toà án xác định quan hệ cha con giữa bạn trai và con gái của bạn thì bạn trai của bạn có đủ các quyền, nghĩa vụ đối với con theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

    Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

    Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

    Và Điều 15 quy định cụ thể về Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

    Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.”

    Như vậy, dù hai bạn không đăng ký kết hôn nhưng về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con thì vẫn giải quyết như trường hợp có đăng ký kết hôn.

    Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:

    • Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
    • Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
    • Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Theo đó, về nguyên tắc vợ, chồng tự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Trường hợp của bạn, con bạn 8 tuổi thì ngoài căn cứ vào quyền lợi còn phải xem xét nguyện vọng của con.

    quy dinh ve don phuong ly honTình huống 2

    Tôi và chồng kết hôn được 3 năm và có 1 con trai 2 tuổi. Chồng tôi thường xuyên chửi bới, đánh đập tôi, kể cả thời điểm tôi đang mang thai hay mới sinh. Hiện nay, tôi đã có công việc và thu nhập ổn định, tôi muốn ly hôn.

    Vợ chồng tôi có tài sản chung là một mảnh đất thổ cư 500m2, 1 nhà cấp 4 trên đất. Lúc mới cưới, chúng tôi có vay ngân hàng 500 triệu để làm ăn.

    Chồng tôi không đồng ý ly hôn, vậy tôi có ly hôn được  không và nếu ly hôn, liệu tôi có giành quyền nuôi con được không? Tôi có thể được chia bao nhiêu tài sản? Xin luật sư tư vấn giúp tôi.

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Thứ nhất, về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

    Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bạn có đầy đủ quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của Luật này.

    Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 56 Luật này quy định về Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

    Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

    Thứ hai, về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

    Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

    Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Về nguyên tắc, con trai 2 tuổi của bạn sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ khi chồng bạn cũng muốn giành quyền nuôi con và chứng minh được điều kiện của bạn không đủ để đáp ứng quyền lợi về mọi mặt của bé.

    Thứ ba, về việc phân chia tài sản chung khi ly hôn

    Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

    Khoản 2 Điều này quy định Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

    • Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng
    • Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập
    • Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập
    • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

    Tài sản mà bạn nêu trong nội dung câu hỏi nếu được xác định là tài sản chung của vợ chồng thì về nguyên tắc sẽ được chia đôi trong đó bao gồm cả nghĩa vụ trả nợ ngân hàng trong đó có tính đến các yếu tố nêu trên.

    Tôi và chồng kết hôn được 2 năm và con một bé trai 18 tháng. Chồng tôi đi làm có lương, còn tôi từ ngày kết hôn thì ở nhà nội trợ, hiện không có thu nhập ổn định. Trong thời gian chung sống, tôi phát hiện chồng ngoại tình. Nay tôi muốn ly hôn nhưng tôi có thắc mắc liệu ly hôn tôi có giành được quyền nuôi con không? Mong luật sư giải đáp.

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

    • Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
    • Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
    • Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Trường hợp của bạn, về nguyên tắc, con bạn 18 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi nhưng vì bạn không có việc làm, thu nhập ổn định nên Toà án sẽ xem xét điều kiện của các bên liên quan đến việc trông nom, nuôi dưỡng giáo dục con để quyết định việc giao con.

    Bạn có thể thỏa thuận với chồng bạn về người sẽ trực tiếp nuôi con. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định việc giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con bạn. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận với chồng bạn về người trực tiếp nuôi con thì bạn cần chứng minh trước Toà việc mình có đủ điều kiện để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về vật chất lẫn tinh thần cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Một số tình huống về giành quyền nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Một số tình huống liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Một số tình huống liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

    Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con

    • Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

    Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.

    Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.

    • Điều 110 quy định cụ thể Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con:

    Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.

    Nghĩa vụ cấp dưỡng đặt ra trong các trường hợp sau:

    – Thứ nhất, khi hôn nhân đang tồn tại mà cha mẹ không có điều kiện trực tiếp nuôi con con được giao cho người khác trông nom thì cha mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng con. Hoặc  cha mẹ bị hạn chế quyền cha mẹ đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

    – Thứ hai: Khi cha, mẹ ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    – Thứ ba: Trường hợp người cha phải cấp dưỡng cho con ngoài giá thú khi người con này ở với mẹ. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    • Điều 116, 117 quy định mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng như sau:

    Điều 116. Mức cấp dưỡng

    1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Điều 117. Phương thức cấp dưỡng

    Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.

    Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    • Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt theo các trường hợp quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, cụ thể:

    – Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;

    – Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;

    – Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;

    – Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;

    – Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;

    – Trường hợp khác theo quy định của luật.

    • Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

    3. Trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng có thể bị xử lý như thế nào?

    Xử phạt vi phạm hành chính

    Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng

    • Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;

    b) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

    • Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định đối với các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.

    Truy cứu trách nhiệm hình sự

    Nếu việc từ chối hoặc trốn tránh cấp dưỡng làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính thì người từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng có thể bị xử lý hình sự về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự, cụ thể:

    Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe

    hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

    4. Tình huống minh hoạ

    a. Tình huống 1

    Chào luật sư. Tôi và người yêu sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Hiện tôi và anh có 1 con chung 3 tuổi. Do xảy ra một số mâu thuẫn nên chúng tôi đã chia tay. Con do tôi nuôi dưỡng nhưng cả anh và gia đình anh đều không đồng ý cấp dưỡng cho tôi nuôi con. Giờ tôi muốn khởi kiện để yêu cầu cấp dưỡng có được không? Nếu được thì tôi cần chuẩn bị những giấy tờ gì, nộp ở đâu? Xin luật sư tư vấn giúp tôi.

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”

    Và Điều 15 Luật này quy định: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.”

    Như vậy, nếu hai bạn đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nhưng chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì quyền, nghĩa vụ đối với con vẫn được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.

    Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con được quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình như sau: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.” Căn cứ theo quy định trên và thông tin bạn cung cấp thì bạn trai bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên (3 tuổi) trong trường hợp không sống chung với con.

    Khoản 2 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.

    Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 119 bao gồm:

    • Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
    • Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:

    a) Người thân thích;

    b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

    c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

    d) Hội liên hiệp phụ nữ.

    • Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

    Bạn là mẹ của người được cấp dưỡng, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

    Căn cứ khoản 5 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu người cha không đồng ý cấp dưỡng cho con thì bạn có thể khởi kiện đến Tòa án cấp huyện nơi người cha đang sinh sống, làm việc để yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người cha phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

    Hồ sơ khởi kiện bao gồm:

    • Đơn khởi kiện về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con
    • Bản sao CMND/CCCD, Sổ hộ khẩu của người khởi kiện
    • Bản sao Giấy khai sinh của con
    • Trường hợp Giấy khai sinh không có tên của người cha hoặc trước đó chưa làm thủ tục xác định cha cho con thì bạn cần nộp thêm bản sao giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ cha – con (văn bản xác định AND của cơ quan y tế, thư từ, tin nhắn, ghi âm,…)
    • Các giấy tờ chứng minh mức thu nhập hoặc điều kiện kinh tế của bạn trai bạn (nếu có)

    b. Tình huống 2

    Khoảng 1 năm trước, tôi phát hiện chồng tôi ngoại tình nhưng sau đó anh ấy đã cắt đứt ngay. Gần đây, cô gái từng ngoại tình với chồng tôi liên tục khủng bố tin nhắn và điện thoại, cô ta nói rằng đã sinh con với chồng tôi và yêu cầu chồng tôi cấp dưỡng cho hai mẹ con, nếu không sẽ khởi kiện ra toà.

    Xin hỏi nếu đứa con thực sự là con của chồng tôi thì chồng tôi có phải cấp dưỡng cho hai mẹ con cô ấy không? Nếu chồng tôi không đồng ý cấp dưỡng thì cô ấy có quyền kiện chồng tôi không?

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

    “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.”

    Như vậy, chồng bạn không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với nhân tình vì giữa chồng bạn và cô ấy không có quan hệ hôn nhân. Nếu đứa con thực sự là con của chồng bạn thì chồng bạn với con riêng có quan hệ huyết thống, nên anh ấy có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên theo quy định trên.

    Khoản 1 Điều 119 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

    “Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.”

    Nhân tình là mẹ của người được cấp dưỡng nên cô ấy có quyền yêu cầu Tòa án buộc chồng bạn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với con.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Một số tình huống liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!