Danh mục: Pháp luật hình sự

  • Tha tù trước hạn có điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015

    Tha tù trước hạn có điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Điều 66, Điều 106 Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện

    2. Tha tù trước hạn có điều kiện là gì?

    Theo Điều 1 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP:

    Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ.

    3. Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện

    tha tù trước hạn có điều kiệnKhoản 1 Điều 106 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

    • Phạm tội lần đầu;
    • Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
    • Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;
    • Có nơi cư trú rõ ràng.

    Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

    Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

    • Đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
    • Phạm tội lần đầu.

    Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;

    b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;

    c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

    d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.

    • Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự, cụ thể như sau:

    a) Người đang chấp hành án phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn phải có ít nhất 20 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    b) Người đang chấp hành án phạt tù trên 20 năm đến 30 năm phải có ít nhất 16 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    c) Người đang chấp hành án phạt tù trên 15 năm đến 20 năm phải có ít nhất 12 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    d) Người đang chấp hành án phạt tù trên 10 năm đến 15 năm phải có ít nhất 08 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    đ) Người đang chấp hành án phạt tù trên 05 năm đến 10 năm phải có ít nhất 06 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    e) Người đang chấp hành án phạt tù trên 03 năm đến 05 năm phải có ít nhất 04 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    g) Người đang chấp hành án phạt tù từ 03 năm trở xuống phải có ít nhất 02 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

    Ví dụ: Nguyễn Văn A bị kết án 14 năm. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2018, A đã chấp hành án được 07 năm tù. Để đủ điều kiện xét tha tù trước thời hạn có điều kiện (trong Quý I/2018), thì Nguyễn Văn A phải được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên của 08 quý liên tục liền kề như sau: Quý I/2018; Quý I, II, III, IV/2017; Quý II, III, IV/2016.

    • Có nơi cư trú rõ ràng.

    Nơi cư trú là nơi tạm trú hoặc thường trú theo quy định của Luật Cư trú mà người được tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được tha tù.

    Nơi cư trú rõ ràng là nơi cư trú có địa chỉ được xác định cụ thể.

    • Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

    a) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và án phí là đã nộp đầy đủ các khoản tiền phạt và án phí thể hiện ở các biên lai, chứng từ hoặc có quyết định miễn chấp hành hình phạt tiền, miễn nộp án phí của Tòa án.

    b) Đã chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một trong các trường hợp: Đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án; có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; có thỏa thuận bằng văn bản của bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại về việc không phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

    • Đã chấp hành được ít nhất một phần hai mức phạt tù có thời hạn; ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

    a) Thời gian đã chấp hành án phạt tù là thời gian người đó bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù trong các cơ sở giam giữ hoặc thời gian người đó bị bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không kể thời gian được tại ngoại, được hoãn, tạm đình chỉ và thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thời gian đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (nếu có) được tính để trừ vào phần thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại.

    Ví dụ: Nguyễn Văn B bị kết án 14 năm tù. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2018, Nguyễn Văn B đã chấp hành án được 07 năm tù. Trong quá trình chấp hành án, B được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 01 năm, nên thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại là 06 năm.

    b) Trường hợp người đang chấp hành án phạt tù là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

    Người có công với cách mạng, thân nhân người có công với cách mạng được xác định theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.

    Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng được xác định theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.

    Việc xác định người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật.

    • Khi xét tha tù trước thời hạn có điều kiện phải xem xét thận trọng, chặt chẽ để bảo đảm việc tha tù trước thời hạn có điều kiện không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là đối với các trường hợp phạm tội về ma túy, tham nhũng, phạm tội có tổ chức, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm.

    Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng

    Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự có thể được tha tù trước thời hạn có điều kiện khi có đủ các điều kiện được hướng dẫn tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 2 của Nghị quyết này.

    • Phạm tội lần đầu.
    • Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự
    • Có nơi cư trú rõ ràng.
    • Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
    • Đã chấp hành được ít nhất một phần hai mức phạt tù có thời hạn; ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

    Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù

    Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự có thể được tha tù trước thời hạn có điều kiện khi có đủ các điều kiện sau đây:

    • Phạm tội lần đầu.
    • Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự
    • Có nơi cư trú rõ ràng.
    • Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù.

    4. Trường hợp không áp dụng tha tù trước thời hạn

    Trường hợp không áp dụng tha tù trước thời hạn theo khoản 2 Điều 66 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) như sau:

    – Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299 Bộ luật Hình sự 2015;

    + Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

    + Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;

    + Tội khủng bố.

    – Người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự 2015 về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người này do cố ý;

    Hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 248, 251 và 252 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

    + Tội cướp tài sản;

    + Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;

    + Tội sản xuất trái phép chất ma túy;

    + Tội mua bán trái phép chất ma túy;

    + Tội chiếm đoạt chất ma túy.

    – Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

    + Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

    + Người đủ 75 tuổi trở lên;

    + Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

    4. Thời điểm xét tha tù trước thời hạn có điều kiện

    Thời điểm xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện mỗi năm 03 đợt vào thời điểm kết thúc quý I, kết thúc quý II và kết thúc năm xếp loại theo Điều 57 Luật Thi hành án hình sự 2019.

    5. Hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện

    Hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện theo Điều 58 Luật Thi hành án hình sự 2019 như sau:

    – Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm:

    + Lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện;

    + Chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù.

    – Hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện bao gồm:

    + Đơn xin tha tù trước thời hạn có điều kiện của phạm nhân kèm theo cam kết không vi phạm pháp luật, các nghĩa vụ phải chấp hành khi được tha tù trước thời hạn;

    + Bản sao bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; quyết định thi hành án;

    + Tài liệu thể hiện phạm nhân có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt là các quyết định hoặc bản sao quyết định xếp loại chấp hành án phạt tù;

    + Bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    + Văn bản, tài liệu thể hiện việc chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, án phí;

    + Tài liệu để xác định thời gian thực tế đã chấp hành án phạt tù;

    + Trường hợp phạm nhân là người có công với cách mạng hoặc thân nhân của người có công với cách mạng, người từ đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đang chấp hành án phạt tù dưới 18 tuổi thì phải có tài liệu chứng minh;

    + Văn bản đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện của trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.

    – Người đã được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc người được áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được bảo lưu kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại tiếp tục chấp hành án.

    Trường hợp này, nếu được UBND cấp xã nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú, đơn vị quân đội được giao quản lý hoặc cơ sở y tế điều trị người đó xác nhận chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thì có thể được xem xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện.

    – Trường hợp phạm nhân được trích xuất để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử nhưng không thuộc đối tượng đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi nhận phạm nhân trích xuất thực hiện:

    Gửi văn bản đề nghị trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đang quản lý hồ sơ phạm nhân xem xét, lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, nếu họ có đủ điều kiện.

    6. Thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện

    Theo Điều 59 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định về việc thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện như sau:

    – Ngay sau khi nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải niêm yết danh sách phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện tại cơ sở giam giữ phạm nhân.

    Ngay sau khi quyết định tha tù trước thời hạn có hiệu lực pháp luật, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện và tha phạm nhân.

    Thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật.

    Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm bàn giao hồ sơ phạm nhân cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.

    – Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu tiếp nhận, quản lý hồ sơ phạm nhân;

    Lập hồ sơ quản lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện và giao cho UBND cấp xã, đơn vị quân đội để tổ chức quản lý.

    Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải trình diện UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý để cam kết chấp hành nghĩa vụ, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

    Trường hợp hết thời hạn 05 ngày mà người được tha tù trước thời hạn có điều kiện không trình diện, UBND cấp xã, đơn vị quân đội triệu tập người đó đến trụ sở để cam kết việc chấp hành nghĩa vụ.

    Trường hợp người đó không có mặt theo đúng thời hạn triệu tập hoặc không cam kết thì Công an cấp xã, đơn vị quân đội lập biên bản vi phạm nghĩa vụ.

    UBND cấp xã, đơn vị quân đội báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu kết quả việc trình diện và cam kết của người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.

    – Trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện do quân đội quản lý nhưng sau đó không còn phục vụ trong quân đội thì cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu thực hiện:

    Bàn giao người đó kèm theo hồ sơ phạm nhân cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó về cư trú lập hồ sơ quản lý và giao cho UBND cấp xã để tổ chức quản lý.

    – Vào ngày cuối cùng của thời gian thử thách, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi đã quản lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện có trách nhiệm thực hiện cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù cho họ và gửi cho các cơ quan:

    + Viện kiểm sát cùng cấp;

    + Tòa án đã ra quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện;

    + Tòa án đã ra quyết định thi hành án;

    + Trại giam;

    + Trại tạm giam;

    + Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;

    + Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người đó đã chấp hành án;

    + Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia;

    + UBND cấp xã nơi người đó về cư trú.

    – Trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện chết, UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý người đó thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để thông báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án.

    Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ thi hành án và gửi cho các cơ quan:

    + Viện kiểm sát cùng cấp;

    + Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;

    + Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu;

    + UBND cấp xã;

    + Đơn vị quân đội được giao quản lý người đó;

    + Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định có trụ sở.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tha tù trước hạn có điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Nguyễn Văn Việt do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng bọn đột nhập vào nhà bà Minh trộm cắp. Khi bị phát hiện Việt đã chủ động tấn công và đâm chết cháu trai của bà Minh khi anh này cố tình ngăn cản không cho Việt chạy thoát.

    Sau khi Việt bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố Việt về tội giết người thì gia đình Việt đã có đơn kiện, cho rằng do Việt còn nhỏ (mới hơn 14 tuổi), nhận thức kém, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Luật sư cho tôi hỏi, pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    tội giết người

    1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

    Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

    “Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:

    a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);

    b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

    c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

    d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

    đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

    e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).”

     

    1. Khái niệm giết người:

    Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng của con người. Tội giết người được quy định tại Điều 123, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

     

    1. Căn cứ pháp lý của Tội giết người:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về Tội giết người:

    “Điều 123. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết 02 người trở lên;

    b) Giết người dưới 16 tuổi;

    c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2.Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

    3.Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    4.Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”

    4.      Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội giết người:

    ·         Chủ thế của tội giết người

    Chủ thể của tội giết người là chủ thể thường. Nghĩa là bất kỳ người nào từ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thể của tội giết người.

    Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

     

    ·         Khách thể của tội giết người

    Quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Cuộc sống của mỗi người bắt đầu từ khi họ được sinh ra đến khi họ chết. Tội giết người trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người.

    Đối tượng tác động của tội giết người là thân thể con người đang sống. Hành vi của người phạm tội giết người đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người.

     

    ·         Mặt chủ quan của tội giết người

    Người phạm tội giết người luôn thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).

    Giết người với lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp một người nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức hậu quả chết người sẽ xảy ra và mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra.

    Giết người với lồi cố ý gián tiếp là trường hợp một người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

     

    ·         Mặt khách quan của tội giết người

    Mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền sống của người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội có thể hành động hoặc không hành động.

    Các phương tiện như súng, dao, gậy, tay chân, thuốc độc… Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác thường được thực hiện bằng các phương thức như bắn, chém, đâm, treo cổ, bóp cổ, đầu độc, đấm đá…

     

    ·         Hậu quả

    Hậu quả do hành vi của tội phạm giết người gây ra là làm người khác chết (tức là chấm dứt sự sống của người khác). Tuy nhiên chỉ cần hành vi mà người phạm tội đã thực hiện có mục đích làm chấm dứt sự sống của người khác (hay làm cho người khác chết) thì được coi là cấu thành tội giết người cho dù hậu quả chết người có xảy ra hay không.

    Một số trường hợp, việc dùng vũ lực không gây ra hậu quả trực tiếp làm nạn nhân chết mà chỉ có tác dụng đẩy nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và tử vong (như xô nạn nhân xuống sông và bỏ mặc cho đến chết hoặc đạp nạn nhân ra ngoài đường đang có nhiều xe ôtô chạy dẫn đến bị xe cán chết…) vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người nếu chứng minh được người thực hiện hành vi đó có mục đích giết người.

    Đây có thể xem là hậu quả gián tiếp.

     

    5.      Hình phạt đối với tội giết người:

    Như quy định trên, người thực hiện tội phạm giết người sẽ chịu hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình. Điều luật quy định 02 khung hình phạt chính, 01 khung hình phạt bổ sung và 01 khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội.

    –  Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết 02 người trở lên;

    b) Giết người dưới 16 tuổi;

    c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    – Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

    – Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    – Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

     

    1. Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích

    Trong Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS), tội giết người và tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người được quy định tại Điều 123 và Điều 134. Hai tội danh này có những điểm khác nhau như sau:

    – Mục đích của hành vi phạm tội:
    + Tội giết người: Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.
    + Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

    – Xác định mức độ, cường độ tấn công

    + Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây chết người.
    + Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập với cường độ tấn công nhẹ hơn.

    – Vị trí tác động trên cơ thể:

    + Tội giết người: Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng,…
    + Tối cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Thường là những vị trí không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân, v.v…

    – Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác.


    + Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy…cũng là yếu tố quan trọng nhằm phân biệt hai tội này.

    – Yếu tố lỗi:


    + Tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Trong trường hợp một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý trực tiếp.

    Trong trường hợp một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý gián tiếp.

    + Tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người: Người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra.

    Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    – Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích, người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Còn trường hợp phạm tội giết người chưa đạt là người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của họ.

    -Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội cố ý gây thương tích, nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội giết người.

    1. Kết luận:

    Căn cứ quy định ở trên, Việt bị truy tố tội giết người khi Việt đã hơn 14 tuổi, là đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra nên việc gia đình Việt có đơn kiện là hoàn toàn trái quy định của pháp luật.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

    b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

    c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

    d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

    Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

     

    Theo khoản 1, Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Điểm a Khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định nguyên tắc:

    Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.”

    Để thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình phải chủ động đấu tranh chống tội phạm, thường xuyên có sự phối hợp để phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội đồng thời xử lý những hành vi đó một cách nhanh chóng, công bằng, đúng pháp luật.

    Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có một số trường hợp vì lý do này hay lý do khác mà các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đã bỏ quên một số hành vi phạm tội, không truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Đối với những trường hợp này, nếu trong một thời gian nhất định người phạm đã tự hối cải, làm ăn lương thiện, không phạm tội mới, không trốn tránh sự trừng trị của pháp luật thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự là không cần thiết, bởi vì hành vi nguy hiểm cũng như bản thân người phạm tội lúc đó đã không còn nguy hiểm cho xã hội. Hơn nữa, việc truy cứu trách nhiệm hình sự lúc này sẽ không đạt được mục đích của hình phạt.

    3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội phạm

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    (i) 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng

    Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (điểm a, khoản 2 Điều 1 Bộ luật Hình sự).

    Ví dụ về một số tội phạm ít nghiêm trọng quy định trong Bộ luật hình sự như:
    – Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124);
    – Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 174).

    (ii) 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng

    Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù (điểm b, khoản 2 Điều 1 Bộ luật Hình sự).

    Ví dụ về một số tội phạm nghiêm trọng quy định trong Bộ luật Hình sự:
    – Tội lây truyền HIV cho người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 148;
    – Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 175.

    (iii) 15 năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng

    Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù (điểm c, khoản 2 Điều 1, Bộ luật Hình sự).

    Ví dụ về một số tội phạm rất nghiêm trọng quy định trong Bộ luật Hình sự như:
    – Tội nhận hối lộ theo khoản 2 Điều 354,
    – Tội mua bán người theo khoản 2 Điều 150.

     

    (iv) 20 năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

    Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (điểm d, khoản 2 Điều 1 Bộ luật Hình sự).

    Ví dụ về một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định trong Bộ luật Hình sự:
    – Tội giết người theo khoản 1 Điều 123;
    – Tội nhận hối lộ theo khoản 4 Điều 354.

    4. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    Theo khoản 3 Điều 27 Bộ luật Hình sự:

    Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. 

    Ví dụ: Ngày 05/01/2015 A mượn chiếc xe máy của B để đưa mẹ vào bệnh viện khám bệnh, nhưng sau đó A không trả lại chiếc xe cho B mà bán được 10 triệu đồng đánh bạc bị thua hết. Do bị thua bạc và không còn xe để trả cho B nên A đã bỏ trốn vào miền Nam ở với chị gái; ngày 05/10/2018 A về gia đình.

    Sau khi về nhà, A hứa với B sẽ bồi thường chiếc xe máy cho chị, nên B không tố cáo hành vi phạm tội của A với Cơ quan điều tra. Chờ mãi không thấy A bồi thường chiếc xe máy cho mình, nên ngày 20/02/2020  B đã làm đơn tố cáo hành vi phạm tội của Nguyễn Văn A với Cơ quan điều tra.

    Sau khi xác định hành vi phạm tội của Nguyễn Văn A là hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 và là tội phạm ít nghiêm trọng nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn A.

    Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

    Ví dụ: Ngày 01/01/2010 V phạm tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự nhưng chưa bị khởi tố điều tra, đến ngày 10/12/2014, V lại phạm tội trộm cắp tài sản và đến ngày 30/6/2015 cơ quan điều tra mới phát hiện hành vi phạm tội trộm cắp.

    Nếu căn cứ vào thời hiệu truy trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng thì sau ngày 01/01/2015 là đã hết, nhưng trước đó (10/12/2014) V lại phạm tội mới nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội gây rối trật tự nơi công cộng lại được tính từ ngày 10/12/2015 chứ không phải từ ngày 01/01/2010.

    Vì vậy V phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội: tội trộm cắp tài sản và tội gây rối trật tự công cộng.

    Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

    Ví dụ: Mới đây, báo Tuổi trẻ vừa đăng tải vụ án của bà Trần Thị Sáu (59 tuổi) phải đứng trước TAND TP Hà Nội để nghe phán quyết về tội ác mà mình đã gây ra từ cách đây 22 năm trước.

    Do bế tắc, Sáu thường nghĩ đến chuyện giết chết hai con rồi tự tử để thoát khổ đau.

    Một ngày đầu tháng 4-1996, Sáu đưa hai con Ngô Thị Hằng, 5 tuổi và Ngô Thị Nga mới hơn 1 tuổi đi lang thang thăm họ hàng. Sau đó Sáu vay của người hàng xóm 4.000 đồng đi mua hai gói thuốc diệt chuột, 10 gói thuốc tẩy sán lợn, một chai nước cam và hai chiếc bánh nướng.

    Sáu đưa hai con ra con đê của làng rồi đổ thuốc diệt chuột vào chai nước cam cho hai con uống. Sáu tiếp tục đổ thuốc tẩy sán lợn vào chai nước rồi uống cùng ba vỉ thuốc đau đầu. Uống xong, cả ba mẹ con nằm ôm nhau mê man bất tỉnh. Khuya cùng ngày, lực lượng công an đi tuần tra phát hiện ba mẹ con nên đưa đi cấp cứu.

    Tuy nhiên, hai con của Sáu đã tử vong trước đó. Kết quả giám định cho thấy hai đứa trẻ đáng thương chết vì phù phổi cấp do độc chất, khả năng do uống thuốc chuột Trung Quốc. Khi vụ việc đang trong quá trình điều tra, do sức khỏe còn yếu nên Sáu được cơ quan điều tra cho tại ngoại.

    Tuy nhiên, do lo sợ sự trừng phạt của cơ quan chức năng, sợ sự bàn tán của bà con lối xóm nên Sáu đã bắt xe bỏ trốn khỏi quê hương. Sáu lưu lạc từ Hà Tây vào tận Lâm Đồng. Tại đây, Sáu giấu biệt tên tuổi và thân phận của mình.

    Một năm sau, Sáu lấy chồng mới rồi sinh liên tiếp hai con trai. Cuộc sống ở vùng đất mới cũng chật vật không kém, Sáu cũng phải bươn bả đủ thứ nghề để kiếm sống. Rồi người chồng thứ hai cũng qua đời do bệnh. Hai con trai Sáu lớn lên, một đứa đi bộ đội, một đứa đi xuất khẩu lao động. Sáu cứ nghĩ mình đã thoát khỏi sự truy đuổi của cơ quan chức năng, sống yên ổn với gia đình mới.

    Nhưng rồi ngày 02/02/2018, cả Sáu và bà con lối xóm ở Lâm Đồng bất ngờ khi lực lượng công an đến tận nhà bắt Sáu theo lệnh truy nã từ 22 năm trước.

    Như vậy, bà Sáu phạm tội giết người (hơn nữa còn giết từ 2 người trở lên thuộc khung hình phạt tăng nặng) là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm nên có thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm.

    Nếu tính từ ngày tội phạm được thực hiện, tức là đầu tháng 4/1996 thì đến đầu tháng 4/2016 đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi giết người của bà.

    Tuy nhiên, sau khi giết hai con của mình xong bà Sáu đã bỏ trốn từ Hà Tây vào Lâm Đồng, giấu biệt tên tuổi và thân phận của mình. Nên trong vụ việc này thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi giết người của bà Sáu được tính từ ngày bà Sáu bị bắt (tức ngày 02/02/2018)

    5. Các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật này đối với các tội phạm sau đây:

    (i) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này

    Điều 108. Tội phản bội Tổ quốc

    Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân

    Điều 110. Tội gián điệp

    Điều 111. Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ

    Điều 112. Tội bạo loạn

    Điều 113. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân

    Điều 114. Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

    Điều 115. Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội

    Điều 116. Tội phá hoại chính sách đoàn kết

    Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

    Điều 118. Tội phá rối an ninh

    Điều 119. Tội chống phá cơ sở giam giữ

    Điều 120. Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân

    Điều 121. Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân

    (ii) Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật này

    Điều 421. Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược

    Điều 422. Tội chống loài người

    Điều 423. Tội phạm chiến tranh

    Điều 424. Tội tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê

    Điều 425. Tội làm lính đánh thuê

    (iii) Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.

    Tội tham ô tài sản

    Khoản 3 Điều 353

    Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

    b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.

    Khoản 4 Điều 353

    Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

    b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

    Tội nhận hối lộ

    Khoản 3 Điều 354

    Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

    a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

    b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.

    Khoản 4 Điều 354

    Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

    b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

     

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

     

  • Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

    Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

     2. Miễn trách nhiệm hình sự là gì?

    miễn trách nhiệm hình sựMiễn truy cứu trách nhiệm hình sự là gì là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.

    Như vậy, người được miễn trách nhiệm hình sự là người có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp nhất định chứ không phải người không phạm tội. Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án áp dụng (tùy theo từng giai đoạn của vụ án).

    Miễn trách nhiệm hình sự được quy định lần đầu trong Bộ luật Hình sự năm 1985, từng bước dần hoàn thiện trong Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015.

    Đây là một chế định phản ánh nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời, tăng cường khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội thông qua các hình thức trách nhiệm hình sự ngoài cộng đồng.

    Cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ cơ sở của trách nhiệm hình sự, tức là hành vi phạm tội của người phạm tội, song do có những điều kiện mà luật định để có thể được miễn trách nhiệm nên người phạm tội trong trường hợp có được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.

    Không thể miễn trách nhiệm hình sự đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ để xác định được hành vi của người đó là hành vi phạm tội.

    3. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

    Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015, miễn trách nhiệm hình sự có thể chia thành 02 loại là đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

    Đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự

    Đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp, một người có hành vi phạm tội sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự mà không cần có điều kiện nào khác kèm theo.

    Cụ thể, các trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là:

    (1) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

    Theo Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015, Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

    Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

    (2) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (theo điểm a khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự)

    Đây là trường hợp mà người đã thực hiện hành vi được coi là tôi phạm, nhưng trong quá trình tố tụng có sự thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

    Ví dụ: Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ 11 tội so với Bộ luật Hình sự 1999, trong đó có các tội như: “Tội tảo hôn” được quy định tại Điều 148; “Tội hoạt động phỉ” được quy định tại Điều 83;….

    Do đó, kể từ ngày Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật những người trước đây đã thực hiện một (hoặc nhiều) trong các hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm (11 tội đã bỏ) mà sau ngày Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật mới bị phát hiện thì được coi là hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và mặc nhiên người có hành vi này được miễn trách nhiệm hình sự.

    (3) Khi có quyết định đại xá (theo điểm b khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự)

    Đại xá là một chính sách khoan hồng của Nhà nước, trong đó thực hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự, tha tội hoàn toàn, miễn hình phạt cho một số loại tội phạm hoặc nhiều người phạm tội nhất định không phân biệt họ đang chấp hành hình phạt, đã bị truy tố hay xét xử hay chưa.

    Văn bản đại xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích

    Thẩm quyền ra quyết định đại xá thuộc về Quốc hội và được ban hành nhân dịp những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.

    Đến nay, Việt Nam mới có 2 lần đại xá, đó là vào năm 1946 và năm 1976.

    (4) Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự)

    Theo khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội gián điệp thì người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này.

    Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự

    Đây là trường hợp không đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. Đòi hỏi phải cơ quan tiến hành tố tụng có sự đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án của để xét xem có được miễn trách nhiệm hình sự hay không.

    (1) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2 Điều 29)

    Đây là trường tình hình thực tế thay đổi khiến hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa chứ không phải do thay đổi chính sách pháp luật.

    Về lý luận và thực tiễn, trường hợp này rất khó xác định. Các cơ quan tiến hành tố tụng ít khi áp dụng trường hợp này để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

    Trường hợp cũng được coi là do chuyển biến tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa trong trường hợp người phạm tội phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt mà thiếu họ thì nhiệm vụ đó khó hoàn thành, nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã miễn trách nhiệm hình sự cho họ để họ nhận nhiệm vụ đặc biệt đó.

    (2) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29)

    Bệnh hiểm nghèo là một bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Nghị định 134/2016/NĐ-CP đã quy định cụ thể danh mục các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư, nhồi máu cơ tim lần đầu, teo cơ tiến triển,…

    Tuy nhiên không phải bệnh hiểm nghèo nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự mà phải có thêm điều kiện không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.

    (3) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận (điểm c khoản 2 Điều 29)

    Người tự thú có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện:

    • Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát hiện, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm.
    • Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm. Ở đây có nghĩa là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm.

    Ví dụ như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm đang bỏ trốn, thu hồi tang vật,… Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được coi là tự thú để làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.

    • Cùng với việc tự thú, người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; thu lại những nguồn nguy hiểm mà họ đã tạo ra cho người khác hoặc những lợi ích khác, trả lại tài sản đã chiếm đoạt…
    • Đồng thời, phải được coi là lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

    (4) Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 29).

    Việc hòa giải giữa người phạm tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm. Đó là tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác.

    Tuy nhiên, nếu người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mà cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không thể miễn được thì cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, đồng thời giải thích cho người bị hại biết vì sao không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội được.

    (5) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 91)

    Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo khoản 2, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Hình sự quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

    Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    (6) Những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể.

    Ví dụ:

    • Người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 247 Bộ luật Hình sự
    • Người đưa hối lộ dù không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự
    • Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 365 Bộ luật Hình sự
    • Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 390 Bộ luật Hình sự.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tổng hợp quy định về án treo theo pháp luật hiện hành 2022

    Tổng hợp quy định về án treo theo pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo

    Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP sửa đổi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn về án treo

    2. Án treo là gì?

    Án treo được giải thích tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP như sau:

    “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.”

    Theo đó, án treo không phải là một hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá 03 năm.

    Án treo cho phép người phạm tội miễn chấp hành hình phạt tù nhằm khuyến khích họ cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng cảnh cáo rằng nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo của bản án trước đó.

    Điều 65 Bộ luật Hình sự quy định về Án treo như sau:

    Điều 65. Án treo

    1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

     2.Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

     3.Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.

     4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

     5. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

    3. Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

    Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

    • Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
    • Người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
    • Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
    • Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
    • Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo
    • Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

    Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

    • Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

    Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.

    Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

    • Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
    • Khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết này.

    4. Những trường hợp không cho hưởng án treo

    • Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    • Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
    • Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.
    • Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;

    b) Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể

    • Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau:

    a) Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;

    b) Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng;

    c) Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể;

    d) Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú

    Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

    5. Thời gian thử thách của án treo

    Thời gian thử thách của án treo là thời gian mà Tòa án ấn định để thử thách người bị kết án được hưởng án treo, nếu hết thời gian đó mà người bị kết án không phạm tội mới thì hình phạt tù mà Tòa án quyết định đối với người bị kết án sẽ không phải thi hành.

    Ấn định thời gian thử thách 

    Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm.

    Thời gian đã tạm giữ, tạm giam đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù để ấn định thời gian thử thách. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào thời gian chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới.

    Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách

    Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được xác định như sau:

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

     

    • Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm lần sau

    Điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo

    Người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau:

    a) Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;

    b) Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.

    c) Được Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.

    Mỗi năm người được hưởng án treo chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ 01 tháng đến 01 năm. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách Tòa án đã tuyên.

    Trường hợp người được hưởng án treo đã được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, nhưng không được Tòa án chấp nhận, nếu những lần tiếp theo mà họ có đủ điều kiện thì Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.

    Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này, thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách còn lại.

    • Lập công là trường hợp người được hưởng án treo có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị trên 50 triệu đồng của nhà nước, tập thể, công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có sáng kiến được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.
    • Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

    6. Quyết định hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách hoặc phạm tội khác trước khi được hưởng án treo

    Trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm mới và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự; nếu họ đã bị tạm giam, tạm giữ thì thời gian bị tạm giam, tạm giữ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

    Trường hợp người đang được hưởng án treo mà lại phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm khác thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không tổng hợp hình phạt với bản án cho hưởng án treo. Trong trường hợp này, người phạm tội phải đồng thời chấp hành 02 bản án và việc thi hành án do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tổng hợp quy định về án treo theo pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022

    Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022

    Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Bài viết này sẽ phân tích các quy định liên quan đến chế định tổng hợp hình phạt.

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Hình phạt là gì?

    ​​Điều 30 Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt như sau:

    Hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất do Tòa án quyết định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại phạm tội. Không chỉ vậy, hình phạt còn giáo dục người phạm tội ý thức hơn trong việc tuân thủ pháp luật, ngăn họ phạm tội mới, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

    Mục đích của hình phạt: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

    Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

    • Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
    • Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

    3. Tổng hợp hình phạt là gì?

    Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Người phạm tội nghiêm trọng phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội ít nghiêm trọng và người phạm nhiều tội phải bị xử phạt nặng hơn người chỉ phạm một tội.

    Tuy nhiên, khi tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội cũng phải tuân theo nguyên tắc và nguyên tắc này cũng có thể thay đổi tùy thuộc vào chính sách hình sự của Nhà nước.

    Việc tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội nói chung được quy định cụ thể tại các Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự, theo đó, có hai hình thức tổng hợp hình phạt: một là, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; hai là, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

    Theo nguyên tắc, tất cả hành vi phạm tội phải được đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật.

    Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy một người đang chấp hành một bản án vẫn có thể bị phát hiện hành vi phạm tội mà họ thực hiện trước đó hoặc có thể họ sẽ thực hiện một hành vi phạm tội mới. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng hình phạt khác nhau (không cùng loại).

    4. Quy định pháp luật về tổng hợp hình phạt

    Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo đã phạm từ 2 tội trở lên, những tội đó chưa bị đưa ra xét xử, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và bị đưa ra xét xử cùng 1 lần.

    Trong trường hợp này, tòa án quyết định cho mỗi tội phạm 1 hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có. Sau đó, tòa án sẽ tổng hợp những hình phạt này theo quy định của Bộ luật Hình sự.

    Trước khi quyết định hình phạt chung, tòa án phải quyết định hình phạt cho từng tội. Hình phạt chung được quyết định trên cơ sở tổng hợp hình phạt của các tội và hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật cho phép với từng loại hình phạm. Khoa học luật hình sự thừa nhận 3 nguyên tắc: nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cùng tồn tại và nguyên tắc cộng hình phạt.

    Nguyên tắc thu hút hình phạt được áp dụng khi hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân.

    Nguyên tắc cùng tồn tại được áp dụng khi các hình phạt đã tuyên là khác loại và không thể áp dụng được nguyên tắc thu hút thì bị cáo phải chấp hành tất cả các hình phạt này.

    Nguyên tắc cộng hình phạt được áp dụng khi có thể cộng được các hình phạt cùng loại của các tội miễn là hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật quy định.

    tổng hợp hình phạtTheo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự, khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

    Đối với hình phạt chính:

    • Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

    Ví dụ 1:

    A bị phạt 02 cải tạo không giam giữ về tội “làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật” theo khoản 1 Điều 241 và bị phạt 02 năm cải tạo không giam giữ về tội “vi phạm các quy định về quản lý ,bảo vệ động vật hoang dã” theo khoản 1 Điều 234 Bộ luật Hình sự.

    Nếu cộng hai hình phạt này với nhau là 04 năm cải tạo không giam giữ, nhưng vì mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ là 03 năm, nên Tòa án chỉ buộc A phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 năm cải tạo không.

    Ví dụ 2:

    T bị phạt 20 năm tù về tội “giết người” theo khoản 1 Điều 123 và 15 năm tù về tội cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

    Nếu cộng hai hình phạt này với nhau là 35 năm tù, nhưng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự  thì hình phạt tù đối với người phạm nhiều tội tối đa là 30 năm, nên Tòa án chỉ buộc T chấp hành hình phạt tù chung cho cả hai tội là 30 năm tù.

     

    • Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

    Ví dụ:

    Vũ Thị M bị phạt 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội lừa dối khách hàng theo khoản 1 Điều 198 và 02 năm tù về tội trốn thuế theo khoản 3 Điều 200 Bộ luật Hình sự, Tòa án chuyển đổi 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ thành 06 tháng tù và cộng với 02 năm tù, buộc Vũ Thị M phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02 năm 06 tháng tù.

    • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân.

    Ví dụ:

    S bị phạt tù chung thân về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 4 Điều 251, 7 năm tù về tội mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 254 và 10 năm tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự

    Khi tổng hình phạt phạt, Tòa án buộc S phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là tù chung thân.

    • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình.

    Ví dụ:

    B bị phạt tử hình vì tội giết người theo khoản 1 Điều 123, 15 năm tù về tội cướp tài sản theo khoản 3 Điều 168 Bộ luật Hình sự, thì khi tổng hợp hình phạt, Tòa án buộc B phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tử hình.

    • Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung.

    Ví dụ:

    L bị phạt 20.000.000  đồng về tội quảng cáo gian dối theo khoản 1 Điều 197; 50.000.000 đồng về tội lừa dối khách hàng theo khoản 1 Điều 198 và 05 tù về tội buôn bán hàng giả theo khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự.

    Khi tổng hợp hình phạt, Tòa án cộng 20.000.000 đồng với 50.000.000 đồng thành 70.000.000 đồng và buộc L phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 05 năm tù và 70.000.000  đồng.

    • Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác.

    Ví dụ:

    Kim là người mang quốc tịch Hàn Quốc bị phạt 100.000.000 đồng về tội gây ô nhiễm nguồn nước theo khoản 1 Điều 235 và trục xuất về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự, Tòa án buộc Kim phải chấp hành chung cho cả hai tội là trục xuất và 100.000.000 đồng.

    Đối với hình phạt bổ sung:

    • Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
    • Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

    Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

    Theo nguyên tắc, tất cả hành vi phạm tội phải được đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy một người đang chấp hành một bản án vẫn có thể bị phát hiện hành vi phạm tội mà họ thực hiện trước đó hoặc có thể họ sẽ thực hiện một hành vi phạm tội mới. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng hình phạt khác nhau (không cùng loại).

    Theo Điều 56 Bộ luật Hình sự, có 03 trường hợp cần tổng hợp hình phạt và mỗi trường hợp được quy định tại 01 khoản của điều luật, đó là:

    Thứ nhất, đang phải chấp hành bản án hình sự lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này;

    Thứ hai, đang phải chấp hành bản án hình sự lại bị xét xử về tội đã phạm sau khi có bản án này;

    Thứ ba, phải chấp hành nhiều bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật và các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp.

    Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong mỗi trường hợp được quy định cụ thể như sau:

    • Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

    Ví dụ:

    Ngày 20/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh H phạt Phạm Quang K 10 năm tù về tội “nhận hối lộ”, thời hạn tù tính từ ngày 1/8/2014, bản án này không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

    Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù của bản án ngày 20/9/2014, thì phát hiện ngày 13/7/2014, K còn phạm tội “cưỡng dâm” và bị truy tố.

    Ngày 1/11/2014, Tòa án tỉnh H xét xử Phạm Quang K về tội “cưỡng dâm” và phạt Phạm Quang K 05 năm tù. Tòa án tổng hợp với hình phạt 10 năm tù của bản án ngày 20/9/2014, buộc Phạm Quang K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 15 năm tù, được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án ngày 20/9/2014 là 3 tháng.

    • Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phân hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Ví dụ:

    Ngày 1/8/2014, Trần Quốc T bị phạt 3 năm tù về tội “cố ý gây thương tích”. Trong thời gian đang chấp hành hình phạt, ngày 1/8/2016, Trần Quốc T trốn khỏi nơi giam, sau đó phạm tội “giết người” và tội “cướp tài sản” thì bị bắt vào ngày 30/9/2016.

    Đến ngày 1/12/2016 Tòa án xét xử Trần Quốc T về các tội: trốn khỏi nơi giam, tội giết người và tội cướp tài sản và quyết định hình phạt Trần Quốc T 15 năm tù về tội “giết người”, 10 năm tù về tội “cướp tài sản” và 5 năm tù về tội “trốn khỏi nơi giam”, tổng hợp với hình phạt 1 năm tù chưa chấp hành của bản án ngày 1/8/2014, buộc Trần Quốc T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2016.

    Như vậy, thời gian đã chấp hành hình phạt của Trần Quốc T từ 1/8/2014 đến ngày 1/8/2016 (là 2 năm) không được trừ, nên trên thực tế Trần Quốc T có thể phải chấp hành hình phạt 32 năm tù (30 năm + 2 năm).

    • Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015

    Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015

    2. Khái niệm, phân loại khung hình phạt

    Khái niệm

    Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.

    Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.

    Đối với mỗi tội phạm luật có thể chỉ quy định một khung hình phạt nhưng thông thường quy định nhiều khung hình phạt để áp dụng cho những loại trường hợp phạm tội khác nhau của tội đó.

    Phân loại

    Khung hình phạt được phân loại tương ứng với cấu thành tội phạm. Theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì cấu thành tội phạm được phân thành ba loại: cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ. Tương ứng với phân loại cấu thành tội phạm, khung hình phạt cũng được phân thành khung hình phạt cơ bản, khung hình phạt tăng nặng và khung hình phạt giảm nhẹ.

    Khung hình phạt cơ bản là khung hình phạt được quy định cho trường hợp phạm tội thông thường của một loại tội. Mỗi tội phạm đều phải có một khung hình phạt cơ bản. Thông thường khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 của điều luật quy định về tội phạm cụ thể.

    Khung hình phạt giảm nhẹ là khung hình phạt được quy định cho trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm giảm xuống một cách khác hẳn so với trường hợp thông thường của một loại tội. Đối với một tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt giảm nhẹ

    Hình phạt tăng nặng là khung hình phạt trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên một cách khác thông thường của một loại tội. Đối với mỗi tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt tăng nặng.

    2. Tình tiết định khung tăng nặng là gì?

    Định khung là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi phạm tội đã được định tội danh.

    Các tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ một mức độ đáng kể tính chất nguy hiểm của một loại tội (như ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng).

    Các tình tiết định khung là những tình tiết mà nhà làm luật dự định nếu có thì Toà án phải áp dụng ở khung hình phạt mà điều luật quy định có tình tiết đối với người phạm tội.

    Ví dụ:

    Một người mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác theo quy định tại Khoản 2, Điều 154, Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp là một trong những tình tiết định khung. Các tình tiết định khung hay còn gọi là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu cấu thành nên sự tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

    Dấu hiệu định khung hình phạt phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội phù hợp với một khung hình phạt nhất định.

    Những dấu hiệu định khung có thể là dấu hiệu thuộc về mặt khách quan như dấu hiệu mức độ hậu quả hoặc thuộc về mặt chủ quan như tính chất của động cơ hoặc thuộc về nhân thân như tái phạm, tái phạm nguy hiểm…

    Ví dụ: Phạm tội đối với từ 02 đến 05 người là tình tiết định khung tăng nặng đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151, Bộ Luật Hình sự năm 2015.

    3. Các tình tiết định khung tăng nặng theo quy định pháp luật hiện hành

    Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

     a) Phạm tội có tổ chức;

     b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

     c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

     d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

     đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

     e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

     g) Phạm tội 02 lần trở lên;

     h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

     i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;

     k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

     l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

     m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;

     n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;

     o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;

     p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

     2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

    – “Phạm tội có tổ chức” được hiểu là hình thức đồng phạm đặc biệt được ghi nhận tại khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đồng phạm. Theo quy định này, đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hình thức đồng phạm này cho phép những người tham gia có khả năng cao để phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn và đặc biệt lớn cho xã hội.

    Chính vì vậy, đây được coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như quy mô của tội phạm mà những người đó thực hiện, mức độ câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm và vai trò cụ thể của từng người.

    – “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và việc phạm tội là nguồn sống, nguồn thu nhập chính của họ. Trường hợp phạm tội này thể hiện tính nguy hiểm cao hơn so với những trường hợp phạm tội thông thường, vì vậy được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc xử lý được nêu tại điểm d khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự 2015 là nghiêm trị người phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.

    – “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là tình tiết thể hiện việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một thủ đoạn để người phạm tội thực hiện tội phạm. Trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội có được uy tín, sự ảnh hưởng đối với người khác, vì vậy họ đã lợi dụng điều này để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây ảnh hưởng đến uy tín của người cán bộ, uy tín của Nhà nước.

    Do đó, trường hợp phạm tội này cần phải được tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tầm quan trọng của chức vụ, quyền hạn và mức độ lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó của người phạm tội.

    – “Phạm tội có tính chất côn đồ” được hiểu là trường hợp phạm tội mà hành vi phạm tội thể hiện sự hung hãn, ngang ngược, coi thường pháp luật, coi thường người khác, phạm tội có thể vì những nguyên cớ rất nhỏ nhặt. Ở đây, để áp dụng tình tiết này cần phải dựa vào hành vi của người phạm tội chứ không dựa vào chính bản thân người thực hiện hành vi đó.

    Nếu người thực hiện hành vi phạm tội vốn là người có thái độ ngang ngược, vô văn hóa, hung hãn, nhưng khi thực hiện hành vi, tính chất ngang ngược, coi thường người khác, coi thường pháp luật không thể hiện rõ thì không có căn cứ để áp dụng tình tiết này.

    Ngược lại, nếu một người thực hiện hành vi phạm tội vì lý do nhỏ nhặt, không đáng, thể hiện rõ thái độ xấc xược, ngang tàng, hung hãn, coi thường người khác, coi thường pháp luật, thì dù trước đó, trong cuộc sống họ chưa bao giờ thể hiện thái độ này, họ vẫn bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.

    – “Phạm tội vì động cơ đê hèn” được hiểu là động cơ phạm tội của người phạm tội ở đây là động cơ mang tính hèn nhát, bội bạc, phản trắc, thể hiện sự ích kỷ. Chẳng hạn như phạm tội đối với người mà mình mang ơn, phạm tội để trốn tránh trách nhiệm mà mình gây ra,…

    Đây là tình tiết phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội và mức độ lỗi trong trường hợp này nghiêm trọng hơn bình thường, do đó, tình tiết này được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

    – “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” là tình tiết người phạm tội trong trường hợp này thể hiện ý chí quyết tâm cao khi thực hiện tội phạm thông qua việc họ tìm mọi cách cố gắng khắc phục trở ngại, khó khăn nhằm thực hiện tội phạm đến cùng. Vì vậy, mức độ lỗi của người phạm tội ở đây nghiêm trọng hơn so với những trường hợp thông thường khác.

    Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào khó khăn mà người phạm tội cần phải khắc phục và mức độ cố gắng, quyết tâm khắc phục trở ngại để thực hiện tội phạm đến cùng của họ.

    – Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” được hiểu là trước lần phạm tội này, người phạm tội đã thực hiện tội phạm ít nhất một lần trước đó và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội lần này là sự lặp lại tội mà người đó đã phạm trước đó nên thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường.

    Mức độ tăng nặng của tình tiết này tùy thuộc vào số lần phạm tội trước đó cũng như tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người đó đã thực hiện trong từng lần.

    – “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng đã được quy định cụ thể tại Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:

    1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

     2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

     a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

     b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”

    – “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định này, các đối tượng bị xâm hại ở đây là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, là những người không có, hoặc khả năng tự vệ thấp cần phải được người khác bảo vệ. Hành vi phạm tội ở đây đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ của Nhà nước đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người cao tuổi. Do vậy, những trường hợp phạm tội đối với các đối tượng đặc biệt này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với các trường hợp khác.

    – “Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”.. Hành vi phạm tội đối với những người này được xem là nghiêm trọng hơn những trường hợp bình thường.

    Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được là người do thể trạng yếu đuối hoặc bệnh tật dẫn đến không có khả năng chống lại hành vi phạm tội, không có khả năng tự bảo vệ mình. Người lệ thuộc vào người phạm tội là những người khống chế bởi các mối quan hệ ràng buộc với người phạm tội về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác như tôn giáo, tín ngưỡng,…

    Hiện nay, trong Bộ luật Hình sự 2015, các đối tượng được bảo vệ đặc biệt đã được mở rộng thêm, bao gồm cả “người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức”. Các đối tượng này đã được làm rõ trong nội dung các tình tiết giảm nhẹ đã phân tích ở phần trên. Quy định mở rộng đối tượng trong tình tiết này thể hiện chính sách bảo vệ đặc biệt đối với nhóm đối tượng yếu thế, không có hoặc hạn chế khả năng tự vệ.

    – “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng thời điểm xã hội đang khó khăn, phức tạp để dễ dàng thực hiện tội phạm.

    Hoàn cảnh đặc biệt này xảy ra trong xã hội đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, khắc phục khó khăn, tuy vậy người phạm tội đã không giúp đỡ khắc phục, còn có hành vi làm tăng thêm những khó khăn đang có của xã hội. Chính vì vậy, hành vi phạm tội có tình tiết này thể hiện tính chất nghiêm trọng cao hơn bình thường.

    – “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội”. Thủ đoạn phạm tội tinh vi là những mánh khóe, cách thức thực hiện tội phạm phức tạp, kín đáo, khó bị phát hiện. Thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác là việc thực hiện tội phạm với cách thức thâm độc, tàn nhẫn, man rợ, gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần cho chính nạn nhân hoặc người thân của họ. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ tinh vi, tàn nhẫn, thâm độc của thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện.

    – “Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội”, tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội dùng cách thức, công cụ, phương tiện có khả năng đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhiều người khi thực hiện tội  phạm. Chẳng hạn như dùng chất nổ, chất cháy, ném lựu đạn, dùng súng bắn vào đám đông, bỏ độc vào bể nước sinh hoạt chung,…

    Tình tiết này chỉ đòi hỏi thủ đoạn, công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng, đặt trong điều kiện nhất định có khả năng gây nguy hại cho nhiều người mà không đòi hỏi khả năng đó phải thực sự xảy ra. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của thủ đoạn, phương tiện mà người phạm tội lựa chọn.

    – “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, tình tiết tăng nặng này được hiểu là người phạm tội đã có hành vi dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm. Người xúi giục ở đây hoàn toàn nhận thức được người đang bị mình xúi giục phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết này phụ thuộc vào số lượng người bị xúi giục, độ tuổi của người bị xúi giục và tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện.

    – “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm” là trường hợp người phạm tội đã có hành vi gian dối, quỷ quyệt hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm đánh lạc hướng điều tra, trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. Mức độ gian dối, hung hãn cao, thì mức độ trách nhiệm hình sự càng nặng.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022

    Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019

    Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP

    2. Thế nào là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?

    tình tiết giảm nhẹ tnhsHiện nay trong Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung và các văn bản pháp luật liên quan đều không có quy định cụ thể về khái niệm “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.

    Tuy nhiên, có thể hiểu:

    Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những dấu hiệu chủ quan hoặc khách quan của hành vi phạm tội, không phải là dấu hiệu định tội hay định khung hình phạt mà chỉ là căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

    Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bao gồm:

    Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

     a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

     b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

     c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

     d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

     đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

     e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

     g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

     h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

     i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

     k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

     l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

     m) Phạm tội do lạc hậu;

     n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

     o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

     p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

     q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

     r) Người phạm tội tự thú;

     s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

     t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

     u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

     v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

     x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

     2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

     3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Các tình tiết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015

    – Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (Điểm a Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm.

    – Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm.

    – Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (Điểm h Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc xảy ra thiệt hại không lớn.

    Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó.

    – Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Điểm i Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điểm c Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có động cơ là phòng vệ. Hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điểm d Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có tính chất tương tự như trường hợp trên.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điểm đ Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết.

    – Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra (Điểm e Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân.

    – Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra (Điểm g Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại.

    Trong đó, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tại, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác.

    – Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (Điểm k Khoản 1 Điều BLHS): Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Do bị đe dọa hoặc cưỡng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức.

    Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như dọa sẽ gây thương tích, dọa sẽ hủy hoại tài sản… nếu người bị đe dọa không thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức…

    – Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (Điểm l Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này đã thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hành vi và tình trạng này không phải do lỗi của chủ thể như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh.

    – Phạm tội do lạc hậu (Điểm m Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội trong đó người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm.

    – Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điểm q Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh.

    – Người phạm tội tự thú (Điểm r Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.

    – Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, đã có biểu hiện thể hiện rõ đã day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động…

    – Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (Điểm t Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết.

    – Người phạm tội đã lấy công chuộc tội (Điểm u Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã có thành tích đột xuất, tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…

    – Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (Điểm v Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp này được áp dụng cho người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có bằng sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua…

    – Người phạm tội là phụ nữ có thai (Điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Tình tiết này được quy định chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng cũng có phần là do tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm sinh lí của người phụ nữ có thể bị ảnh hưởng khi mang thai.

    – Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên (Điểm o Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm sinh lí ở lứa tuổi này.

    – Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (Điểm p Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

    – Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (Điểm x Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này chủ yếu xuất phát từ chính sách của nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân của liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.

    Ngoài các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS được kể trên, tòa án còn có thể xác định tình tiết khác như tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng phải ghi rõ trong bản án (Khoản 2 Điều 51 BLHS).

    Các “tình tiết khác” theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

    Theo đó, căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các “tình tiết khác” bao gồm:

    – Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em một bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:

    – Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

    – Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

    – Người bị hại cũng có lỗi;

    – Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

    – Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

    – Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

    – Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

    Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thế nào?

    Thứ nhất, cần xác định đúng các nội dung mà nhà làm luật quy định về tình tiết giảm nhẹ đó như thế nào.

    Bạn phải hiểu được tính chất, mức độ giảm nhẹ khác nhau của mỗi tình tiết trong trường hợp cụ thể, xác định được trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào và xác định đủ số lượng các tình tiết được quy định tại mỗi điểm của Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    Thứ hai, cần lưu ý rằng các tình tiết giảm nhẹ không phải là dấu hiệu định tội.

    Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có, thì nó cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ).

    Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình tiết giảm nhẹ, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

    Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ không phải là tình tiết định khung hình phạt cho tội phạm cụ thể. Những tình tiết định khung hình phạt tội phạm thực chất là những tình tiết cấu thành cho từng loại tội phạm.

    Về tình tiết giảm nhẹ đi kèm làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ít nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này.

    Thứ tư, trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hay Tòa án có thể xem xét áp dụng án treo khi mức hình phạt tù đối với người đó không quá 03 năm và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù…

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    Chế định đồng phạm là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của pháp luật hình sự từ xưa đến nay. Theo đó thì tội phạm có thể chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có trường hợp lại do nhiều người cùng gây ra. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 thì trường hợp khi có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì được gọi là đồng phạm.

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Đồng phạm là gì?

    đồng phạmĐiều 17 Bộ luật Hình sự quy định về Đồng phạm như sau:

    Điều 17. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.

    Theo khoản 1 Điều 17 thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    Vậy tội phạm là gì?

    Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,

    do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,

    xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,

    xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

    Từ hai khái niệm về “Đồng phạm” và “Tội phạm”, có thể hiểu đồng phạm là những người cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm, mà khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người tham gia không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người khác trong vụ án đó.

    Việc cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí.

    Theo khái niệm “Đồng phạm” được xác định tại khoản 1 Điều 17 thì đồng phạm gồm các dấu hiệu sau:

    – Sự tham gia của hai người trở lên

    – Hai người đó cố ý cùng thực hiện một tội phạm: Mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi như sau:

    • Hành vi thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người thực hành;
    • Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người tổ chức;
    • Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người xúi giục;
    • Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.

    Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể coi là cùng thực hiện và do vậy cũng không phải là người đồng phạm.

    Trong vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải như vậy và có thể chỉ có một loại hành vi tham gia. Người người được coi là đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc quá trình phạm tội.

    2. Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm

    Chủ thể

    Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Tức là cả hai người đều phải có điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).

    Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không phải là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội đơn lẻ. Nếu trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hành.

    (i) Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

    Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

    Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

    (ii) Không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

    Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Đối với vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại: Bộ luật Hình sự 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại với 33 tội danh được liệt kê tại Điều 76.

    Về điều kiện chủ thể của tội phạm pháp nhân thương mại thì phải là tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, có điều kiện, tiêu chí cụ thể; và về nguyên tắc, khi thỏa mãn các dấu hiệu khách quan và chủ quan trong đồng phạm, thì tất cả các hành vi triển khai thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của pháp nhân, hành vi giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết nhằm hỗ trợ cho pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm đều được coi là đồng phạm.

    Mặt khách quan

    Những người đồng phạm phải cùng thực hiện một tội phạm. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm có thể đều thực hiện hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện một phần trong chuỗi hành vi để tạo thành một hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm.

    Mỗi người đồng phạm có thể cùng tham gia thực hiện tội phạm bởi một loại hành vi, nhưng cũng có thể tham gia với những hành vi khác nhau. Hành vi của người này bổ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu quả hơn.

    Hành vi tham gia thực hiện một tội phạm có thể là: hành vi trực tiếp thực hiện, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Nếu không có một trong bốn loại hành vi này thì không được coi là cùng thực hiện tội phạm, và vì thế cũng không phải là đồng phạm.

    Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả đối với hậu quả chung của tội phạm, hậu quả chung của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia thực hiện tội phạm đem lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của những người khác thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.

    Mặt chủ quan

    Những người đồng phạm đều cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:

    Về lý trí: Mỗi người đồng phạm đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Luật hình sự không đòi hỏi là mỗi người phải biết được cụ thể về số lượng cụ thể và hành vi của những người đồng phạm khác mà chỉ cần họ nhận thức được có sự tham gia của người khác và hành vi của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cùng phối hợp để thực hiện một tội phạm.

    Và trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và đều thấy trước hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.

    Về ý chí: Những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.

    Việc xác định hành vi, dấu hiệu chủ quan của pháp nhân thương mại sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ quan của những con người cụ thể đại diện cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân và giải quyết theo nguyên tắc thông thường như trường hợp đồng phạp giữa cá nhân với cá nhân.

    Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội trong đồng phạm

    Trong đồng phạm thì mục đích phạm tội và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, trong một số cấu thành tội phạm có quy định dấu hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội là dấu hiệu của tội phạm cụ thể thì để xác định có đồng phạm của tội phạm đó đòi hỏi phải xác định được tất cả những người đồng phạm đều có chung mục đích phạm tội, động cơ phạm tội đó, hoặc những người tham gia phạm tội không có cùng mục đích phạm tội, động cơ phạm tội nhưng đã biết và tiếp nhận mục đích, động cơ phạm tội của nhau.

    3. Những hành vi liên quan đến tội phạm cấu thành tội độc lập

    Trong Bộ luật Hình sự 2015 có một số hành vi liên quan đến tội phạm nhưng không coi là hành vi đồng phạm, bởi những hành vi đó không thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm. Đó là hành vi che giấu tội phạm và hành vi không tố giác tội phạm. Hai hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định rõ là hai tội phạm độc lập với các trường hợp đồng phạm.

    Hành vi che giấu tội phạm

    Căn cứ theo Điều 18 Bộ luật Hình sự 2015 thì hành vi che giấu tội phạm là hành vi “không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội”.

    Đặc điểm của hành vi này là:

    – Không có sự bàn bạc thỏa thuận, hứa hẹn trước giữa người có hành vi che giấu và người được che giấu.

    – Hành vi che giấu được thực hiện sau khi tội phạm đã kết thúc.

    – Lỗi luôn là lỗi cố ý trực tiếp.

    Luật pháp hiện nay không coi hành vi che giấu tội phạm là hành vi đồng phạm mà coi đây là hành vi có liên quan đến tội phạm. Trong những trường hợp nhất định, hành vi che giấu tội phạm được quy định là tội che giấu tội phạm.

    Hành vi không tố giác tội phạm

    Căn cứ Điều 19 BLHS 2015 thì hành vi không tố giác tội phạm là hành vi “biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác”.

    Đặc điểm của hành vi này đó là:

    – Hành vi này có thể xảy ra ở giai đoạn tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc tội phạm đã kết thúc.

    – Hành vi luôn dưới dạng hành vi không hành động.

    – Lỗi luôn là cố ý trực tiếp.

    Tương tự như hành vi che giấu tội phạm thì hành vi này được xác định liên quan đến tội phạm. Và trong một số trường hợp không tố giác được quy định là tội không tố giác tội phạm.

    5. Các hình thức đồng phạm

    Phân loại theo dấu hiệu chủ quan

    • Đồng phạm không có thông mưu trước: không có sự thỏa thuận bàn bạc trước, hoặc thỏa thuận không đáng kể
    • Động phạm có thông mưu trước: có sự thỏa thuận trước

    Phân loại theo dấu hiệu khách quan

    • Đồng phạm đơn giản: tất cả đồng phạm đều có vai trò là người thực hành
    • Đồng phạm phức tạp: ngoài người thực hành còn có các loại người khác

    Phạm tội có tổ chức

    • Hình thành với phương hướng hoạt động có tính chất lâu dài và bền vững
    • Có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện cũng như che giấu tội phạm

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?

    Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi

    người dưới 18 tuổiTrong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan…

    Theo Điều 90 Bộ luật Hình sự: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

    Điều 12 Phần thứ nhất Bộ luật Hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

     2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

    3. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

    (i) Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

    Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

    (ii) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

    (iii) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

    (iv) Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

    (v) Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    (vi) Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

    Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    (vii) Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

    4. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi

    4.1. Điều kiện áp dụng

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.

    4.2. Các biện pháp 

    Khiển trách

    Khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

    Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;

    b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;

    c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.

    Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.

    Hòa giải tại cộng đồng

    Hòa giải tại cộng đồng được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.

    Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại;

    b) Nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.

    Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại điểm a khoản 3 Điều này và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này từ 03 tháng đến 01 năm.

    Giáo dục tại xã, phường, thị trấn

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.

    Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động;

    b) Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn;

    c) Không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép;

    d) Các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.

    Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

    5. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi

    Giáo dục tại trường giáo dưỡng

    Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

    Người được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.

    Chấm dứt trước thời hạn biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

    Nếu người được giáo dục tại trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng.

    6. Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

    Người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

    • Cảnh cáo;
    • Phạt tiền;
    • Cải tạo không giam giữ;
    • Tù có thời hạn.

    Phạt tiền

    Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

    Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.

    Cải tạo không giam giữ

    Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.

    Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

    Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.

    Tù có thời hạn

    Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

    • Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
    • Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

    7. Quy định về quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt, xoá án tích đối với người dưới 18 tuổi

    7.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

    Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.

    Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.

    Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.

    Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.

    Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.

    7.2. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.

    Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    a) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này;

    b) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này.

    Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    a) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều này;

    b) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.

    7.3. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

    Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này.

    Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 của Bộ luật này.

    7.4. Giảm mức hình phạt đã tuyên

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    7.5. Tha tù trước thời hạn có điều kiện

    Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Phạm tội lần đầu;

    b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;

    c) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;

    d) Có nơi cư trú rõ ràng.

    Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ luật này:

    3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.

     4. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.

     Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

     5. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

    7.6. Xóa án tích

    Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;

    c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.

    Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

    a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;

    b) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

    c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

    d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!