Danh mục: Kiến thức pháp luật

  • Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022

    Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022

    Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Bài viết này sẽ phân tích các quy định liên quan đến chế định tổng hợp hình phạt.

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Hình phạt là gì?

    ​​Điều 30 Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt như sau:

    Hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất do Tòa án quyết định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại phạm tội. Không chỉ vậy, hình phạt còn giáo dục người phạm tội ý thức hơn trong việc tuân thủ pháp luật, ngăn họ phạm tội mới, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

    Mục đích của hình phạt: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

    Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

    • Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
    • Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

    3. Tổng hợp hình phạt là gì?

    Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Người phạm tội nghiêm trọng phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội ít nghiêm trọng và người phạm nhiều tội phải bị xử phạt nặng hơn người chỉ phạm một tội.

    Tuy nhiên, khi tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội cũng phải tuân theo nguyên tắc và nguyên tắc này cũng có thể thay đổi tùy thuộc vào chính sách hình sự của Nhà nước.

    Việc tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội nói chung được quy định cụ thể tại các Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự, theo đó, có hai hình thức tổng hợp hình phạt: một là, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; hai là, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

    Theo nguyên tắc, tất cả hành vi phạm tội phải được đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật.

    Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy một người đang chấp hành một bản án vẫn có thể bị phát hiện hành vi phạm tội mà họ thực hiện trước đó hoặc có thể họ sẽ thực hiện một hành vi phạm tội mới. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng hình phạt khác nhau (không cùng loại).

    4. Quy định pháp luật về tổng hợp hình phạt

    Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo đã phạm từ 2 tội trở lên, những tội đó chưa bị đưa ra xét xử, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và bị đưa ra xét xử cùng 1 lần.

    Trong trường hợp này, tòa án quyết định cho mỗi tội phạm 1 hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có. Sau đó, tòa án sẽ tổng hợp những hình phạt này theo quy định của Bộ luật Hình sự.

    Trước khi quyết định hình phạt chung, tòa án phải quyết định hình phạt cho từng tội. Hình phạt chung được quyết định trên cơ sở tổng hợp hình phạt của các tội và hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật cho phép với từng loại hình phạm. Khoa học luật hình sự thừa nhận 3 nguyên tắc: nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cùng tồn tại và nguyên tắc cộng hình phạt.

    Nguyên tắc thu hút hình phạt được áp dụng khi hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân.

    Nguyên tắc cùng tồn tại được áp dụng khi các hình phạt đã tuyên là khác loại và không thể áp dụng được nguyên tắc thu hút thì bị cáo phải chấp hành tất cả các hình phạt này.

    Nguyên tắc cộng hình phạt được áp dụng khi có thể cộng được các hình phạt cùng loại của các tội miễn là hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật quy định.

    tổng hợp hình phạtTheo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự, khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

    Đối với hình phạt chính:

    • Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

    Ví dụ 1:

    A bị phạt 02 cải tạo không giam giữ về tội “làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật” theo khoản 1 Điều 241 và bị phạt 02 năm cải tạo không giam giữ về tội “vi phạm các quy định về quản lý ,bảo vệ động vật hoang dã” theo khoản 1 Điều 234 Bộ luật Hình sự.

    Nếu cộng hai hình phạt này với nhau là 04 năm cải tạo không giam giữ, nhưng vì mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ là 03 năm, nên Tòa án chỉ buộc A phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 năm cải tạo không.

    Ví dụ 2:

    T bị phạt 20 năm tù về tội “giết người” theo khoản 1 Điều 123 và 15 năm tù về tội cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

    Nếu cộng hai hình phạt này với nhau là 35 năm tù, nhưng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự  thì hình phạt tù đối với người phạm nhiều tội tối đa là 30 năm, nên Tòa án chỉ buộc T chấp hành hình phạt tù chung cho cả hai tội là 30 năm tù.

     

    • Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

    Ví dụ:

    Vũ Thị M bị phạt 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội lừa dối khách hàng theo khoản 1 Điều 198 và 02 năm tù về tội trốn thuế theo khoản 3 Điều 200 Bộ luật Hình sự, Tòa án chuyển đổi 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ thành 06 tháng tù và cộng với 02 năm tù, buộc Vũ Thị M phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02 năm 06 tháng tù.

    • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân.

    Ví dụ:

    S bị phạt tù chung thân về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 4 Điều 251, 7 năm tù về tội mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 254 và 10 năm tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự

    Khi tổng hình phạt phạt, Tòa án buộc S phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là tù chung thân.

    • Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình.

    Ví dụ:

    B bị phạt tử hình vì tội giết người theo khoản 1 Điều 123, 15 năm tù về tội cướp tài sản theo khoản 3 Điều 168 Bộ luật Hình sự, thì khi tổng hợp hình phạt, Tòa án buộc B phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tử hình.

    • Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung.

    Ví dụ:

    L bị phạt 20.000.000  đồng về tội quảng cáo gian dối theo khoản 1 Điều 197; 50.000.000 đồng về tội lừa dối khách hàng theo khoản 1 Điều 198 và 05 tù về tội buôn bán hàng giả theo khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự.

    Khi tổng hợp hình phạt, Tòa án cộng 20.000.000 đồng với 50.000.000 đồng thành 70.000.000 đồng và buộc L phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 05 năm tù và 70.000.000  đồng.

    • Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác.

    Ví dụ:

    Kim là người mang quốc tịch Hàn Quốc bị phạt 100.000.000 đồng về tội gây ô nhiễm nguồn nước theo khoản 1 Điều 235 và trục xuất về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự, Tòa án buộc Kim phải chấp hành chung cho cả hai tội là trục xuất và 100.000.000 đồng.

    Đối với hình phạt bổ sung:

    • Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
    • Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

    Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

    Theo nguyên tắc, tất cả hành vi phạm tội phải được đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy một người đang chấp hành một bản án vẫn có thể bị phát hiện hành vi phạm tội mà họ thực hiện trước đó hoặc có thể họ sẽ thực hiện một hành vi phạm tội mới. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi phạm tội bị áp dụng hình phạt khác nhau (không cùng loại).

    Theo Điều 56 Bộ luật Hình sự, có 03 trường hợp cần tổng hợp hình phạt và mỗi trường hợp được quy định tại 01 khoản của điều luật, đó là:

    Thứ nhất, đang phải chấp hành bản án hình sự lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này;

    Thứ hai, đang phải chấp hành bản án hình sự lại bị xét xử về tội đã phạm sau khi có bản án này;

    Thứ ba, phải chấp hành nhiều bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật và các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp.

    Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong mỗi trường hợp được quy định cụ thể như sau:

    • Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

    Ví dụ:

    Ngày 20/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh H phạt Phạm Quang K 10 năm tù về tội “nhận hối lộ”, thời hạn tù tính từ ngày 1/8/2014, bản án này không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

    Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù của bản án ngày 20/9/2014, thì phát hiện ngày 13/7/2014, K còn phạm tội “cưỡng dâm” và bị truy tố.

    Ngày 1/11/2014, Tòa án tỉnh H xét xử Phạm Quang K về tội “cưỡng dâm” và phạt Phạm Quang K 05 năm tù. Tòa án tổng hợp với hình phạt 10 năm tù của bản án ngày 20/9/2014, buộc Phạm Quang K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 15 năm tù, được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án ngày 20/9/2014 là 3 tháng.

    • Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phân hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Ví dụ:

    Ngày 1/8/2014, Trần Quốc T bị phạt 3 năm tù về tội “cố ý gây thương tích”. Trong thời gian đang chấp hành hình phạt, ngày 1/8/2016, Trần Quốc T trốn khỏi nơi giam, sau đó phạm tội “giết người” và tội “cướp tài sản” thì bị bắt vào ngày 30/9/2016.

    Đến ngày 1/12/2016 Tòa án xét xử Trần Quốc T về các tội: trốn khỏi nơi giam, tội giết người và tội cướp tài sản và quyết định hình phạt Trần Quốc T 15 năm tù về tội “giết người”, 10 năm tù về tội “cướp tài sản” và 5 năm tù về tội “trốn khỏi nơi giam”, tổng hợp với hình phạt 1 năm tù chưa chấp hành của bản án ngày 1/8/2014, buộc Trần Quốc T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2016.

    Như vậy, thời gian đã chấp hành hình phạt của Trần Quốc T từ 1/8/2014 đến ngày 1/8/2016 (là 2 năm) không được trừ, nên trên thực tế Trần Quốc T có thể phải chấp hành hình phạt 32 năm tù (30 năm + 2 năm).

    • Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật hình sự hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015

    Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015

    2. Khái niệm, phân loại khung hình phạt

    Khái niệm

    Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.

    Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.

    Đối với mỗi tội phạm luật có thể chỉ quy định một khung hình phạt nhưng thông thường quy định nhiều khung hình phạt để áp dụng cho những loại trường hợp phạm tội khác nhau của tội đó.

    Phân loại

    Khung hình phạt được phân loại tương ứng với cấu thành tội phạm. Theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì cấu thành tội phạm được phân thành ba loại: cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ. Tương ứng với phân loại cấu thành tội phạm, khung hình phạt cũng được phân thành khung hình phạt cơ bản, khung hình phạt tăng nặng và khung hình phạt giảm nhẹ.

    Khung hình phạt cơ bản là khung hình phạt được quy định cho trường hợp phạm tội thông thường của một loại tội. Mỗi tội phạm đều phải có một khung hình phạt cơ bản. Thông thường khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 của điều luật quy định về tội phạm cụ thể.

    Khung hình phạt giảm nhẹ là khung hình phạt được quy định cho trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm giảm xuống một cách khác hẳn so với trường hợp thông thường của một loại tội. Đối với một tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt giảm nhẹ

    Hình phạt tăng nặng là khung hình phạt trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên một cách khác thông thường của một loại tội. Đối với mỗi tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt tăng nặng.

    2. Tình tiết định khung tăng nặng là gì?

    Định khung là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi phạm tội đã được định tội danh.

    Các tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ một mức độ đáng kể tính chất nguy hiểm của một loại tội (như ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng).

    Các tình tiết định khung là những tình tiết mà nhà làm luật dự định nếu có thì Toà án phải áp dụng ở khung hình phạt mà điều luật quy định có tình tiết đối với người phạm tội.

    Ví dụ:

    Một người mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác theo quy định tại Khoản 2, Điều 154, Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp là một trong những tình tiết định khung. Các tình tiết định khung hay còn gọi là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu cấu thành nên sự tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

    Dấu hiệu định khung hình phạt phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội phù hợp với một khung hình phạt nhất định.

    Những dấu hiệu định khung có thể là dấu hiệu thuộc về mặt khách quan như dấu hiệu mức độ hậu quả hoặc thuộc về mặt chủ quan như tính chất của động cơ hoặc thuộc về nhân thân như tái phạm, tái phạm nguy hiểm…

    Ví dụ: Phạm tội đối với từ 02 đến 05 người là tình tiết định khung tăng nặng đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151, Bộ Luật Hình sự năm 2015.

    3. Các tình tiết định khung tăng nặng theo quy định pháp luật hiện hành

    Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

     a) Phạm tội có tổ chức;

     b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

     c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

     d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

     đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

     e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

     g) Phạm tội 02 lần trở lên;

     h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

     i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;

     k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

     l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

     m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;

     n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;

     o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;

     p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

     2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

    – “Phạm tội có tổ chức” được hiểu là hình thức đồng phạm đặc biệt được ghi nhận tại khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đồng phạm. Theo quy định này, đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hình thức đồng phạm này cho phép những người tham gia có khả năng cao để phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn và đặc biệt lớn cho xã hội.

    Chính vì vậy, đây được coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như quy mô của tội phạm mà những người đó thực hiện, mức độ câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm và vai trò cụ thể của từng người.

    – “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và việc phạm tội là nguồn sống, nguồn thu nhập chính của họ. Trường hợp phạm tội này thể hiện tính nguy hiểm cao hơn so với những trường hợp phạm tội thông thường, vì vậy được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc xử lý được nêu tại điểm d khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự 2015 là nghiêm trị người phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.

    – “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là tình tiết thể hiện việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một thủ đoạn để người phạm tội thực hiện tội phạm. Trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội có được uy tín, sự ảnh hưởng đối với người khác, vì vậy họ đã lợi dụng điều này để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây ảnh hưởng đến uy tín của người cán bộ, uy tín của Nhà nước.

    Do đó, trường hợp phạm tội này cần phải được tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tầm quan trọng của chức vụ, quyền hạn và mức độ lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó của người phạm tội.

    – “Phạm tội có tính chất côn đồ” được hiểu là trường hợp phạm tội mà hành vi phạm tội thể hiện sự hung hãn, ngang ngược, coi thường pháp luật, coi thường người khác, phạm tội có thể vì những nguyên cớ rất nhỏ nhặt. Ở đây, để áp dụng tình tiết này cần phải dựa vào hành vi của người phạm tội chứ không dựa vào chính bản thân người thực hiện hành vi đó.

    Nếu người thực hiện hành vi phạm tội vốn là người có thái độ ngang ngược, vô văn hóa, hung hãn, nhưng khi thực hiện hành vi, tính chất ngang ngược, coi thường người khác, coi thường pháp luật không thể hiện rõ thì không có căn cứ để áp dụng tình tiết này.

    Ngược lại, nếu một người thực hiện hành vi phạm tội vì lý do nhỏ nhặt, không đáng, thể hiện rõ thái độ xấc xược, ngang tàng, hung hãn, coi thường người khác, coi thường pháp luật, thì dù trước đó, trong cuộc sống họ chưa bao giờ thể hiện thái độ này, họ vẫn bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.

    – “Phạm tội vì động cơ đê hèn” được hiểu là động cơ phạm tội của người phạm tội ở đây là động cơ mang tính hèn nhát, bội bạc, phản trắc, thể hiện sự ích kỷ. Chẳng hạn như phạm tội đối với người mà mình mang ơn, phạm tội để trốn tránh trách nhiệm mà mình gây ra,…

    Đây là tình tiết phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội và mức độ lỗi trong trường hợp này nghiêm trọng hơn bình thường, do đó, tình tiết này được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

    – “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” là tình tiết người phạm tội trong trường hợp này thể hiện ý chí quyết tâm cao khi thực hiện tội phạm thông qua việc họ tìm mọi cách cố gắng khắc phục trở ngại, khó khăn nhằm thực hiện tội phạm đến cùng. Vì vậy, mức độ lỗi của người phạm tội ở đây nghiêm trọng hơn so với những trường hợp thông thường khác.

    Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào khó khăn mà người phạm tội cần phải khắc phục và mức độ cố gắng, quyết tâm khắc phục trở ngại để thực hiện tội phạm đến cùng của họ.

    – Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” được hiểu là trước lần phạm tội này, người phạm tội đã thực hiện tội phạm ít nhất một lần trước đó và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội lần này là sự lặp lại tội mà người đó đã phạm trước đó nên thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường.

    Mức độ tăng nặng của tình tiết này tùy thuộc vào số lần phạm tội trước đó cũng như tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người đó đã thực hiện trong từng lần.

    – “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng đã được quy định cụ thể tại Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:

    1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

     2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

     a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

     b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”

    – “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định này, các đối tượng bị xâm hại ở đây là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, là những người không có, hoặc khả năng tự vệ thấp cần phải được người khác bảo vệ. Hành vi phạm tội ở đây đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ của Nhà nước đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người cao tuổi. Do vậy, những trường hợp phạm tội đối với các đối tượng đặc biệt này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với các trường hợp khác.

    – “Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”.. Hành vi phạm tội đối với những người này được xem là nghiêm trọng hơn những trường hợp bình thường.

    Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được là người do thể trạng yếu đuối hoặc bệnh tật dẫn đến không có khả năng chống lại hành vi phạm tội, không có khả năng tự bảo vệ mình. Người lệ thuộc vào người phạm tội là những người khống chế bởi các mối quan hệ ràng buộc với người phạm tội về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác như tôn giáo, tín ngưỡng,…

    Hiện nay, trong Bộ luật Hình sự 2015, các đối tượng được bảo vệ đặc biệt đã được mở rộng thêm, bao gồm cả “người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức”. Các đối tượng này đã được làm rõ trong nội dung các tình tiết giảm nhẹ đã phân tích ở phần trên. Quy định mở rộng đối tượng trong tình tiết này thể hiện chính sách bảo vệ đặc biệt đối với nhóm đối tượng yếu thế, không có hoặc hạn chế khả năng tự vệ.

    – “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng thời điểm xã hội đang khó khăn, phức tạp để dễ dàng thực hiện tội phạm.

    Hoàn cảnh đặc biệt này xảy ra trong xã hội đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, khắc phục khó khăn, tuy vậy người phạm tội đã không giúp đỡ khắc phục, còn có hành vi làm tăng thêm những khó khăn đang có của xã hội. Chính vì vậy, hành vi phạm tội có tình tiết này thể hiện tính chất nghiêm trọng cao hơn bình thường.

    – “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội”. Thủ đoạn phạm tội tinh vi là những mánh khóe, cách thức thực hiện tội phạm phức tạp, kín đáo, khó bị phát hiện. Thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác là việc thực hiện tội phạm với cách thức thâm độc, tàn nhẫn, man rợ, gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần cho chính nạn nhân hoặc người thân của họ. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ tinh vi, tàn nhẫn, thâm độc của thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện.

    – “Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội”, tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội dùng cách thức, công cụ, phương tiện có khả năng đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhiều người khi thực hiện tội  phạm. Chẳng hạn như dùng chất nổ, chất cháy, ném lựu đạn, dùng súng bắn vào đám đông, bỏ độc vào bể nước sinh hoạt chung,…

    Tình tiết này chỉ đòi hỏi thủ đoạn, công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng, đặt trong điều kiện nhất định có khả năng gây nguy hại cho nhiều người mà không đòi hỏi khả năng đó phải thực sự xảy ra. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của thủ đoạn, phương tiện mà người phạm tội lựa chọn.

    – “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, tình tiết tăng nặng này được hiểu là người phạm tội đã có hành vi dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm. Người xúi giục ở đây hoàn toàn nhận thức được người đang bị mình xúi giục phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết này phụ thuộc vào số lượng người bị xúi giục, độ tuổi của người bị xúi giục và tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện.

    – “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm” là trường hợp người phạm tội đã có hành vi gian dối, quỷ quyệt hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm đánh lạc hướng điều tra, trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. Mức độ gian dối, hung hãn cao, thì mức độ trách nhiệm hình sự càng nặng.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022

    Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019

    Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP

    2. Thế nào là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?

    tình tiết giảm nhẹ tnhsHiện nay trong Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung và các văn bản pháp luật liên quan đều không có quy định cụ thể về khái niệm “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.

    Tuy nhiên, có thể hiểu:

    Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những dấu hiệu chủ quan hoặc khách quan của hành vi phạm tội, không phải là dấu hiệu định tội hay định khung hình phạt mà chỉ là căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015

    Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bao gồm:

    Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

     a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

     b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

     c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

     d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

     đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

     e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

     g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

     h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

     i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

     k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

     l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

     m) Phạm tội do lạc hậu;

     n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

     o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

     p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

     q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

     r) Người phạm tội tự thú;

     s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

     t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

     u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

     v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

     x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

     2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

     3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Các tình tiết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015

    – Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (Điểm a Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm.

    – Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm.

    – Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (Điểm h Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc xảy ra thiệt hại không lớn.

    Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó.

    – Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Điểm i Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điểm c Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có động cơ là phòng vệ. Hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điểm d Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có tính chất tương tự như trường hợp trên.

    – Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điểm đ Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết.

    – Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra (Điểm e Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân.

    – Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra (Điểm g Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại.

    Trong đó, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tại, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác.

    – Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (Điểm k Khoản 1 Điều BLHS): Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Do bị đe dọa hoặc cưỡng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức.

    Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như dọa sẽ gây thương tích, dọa sẽ hủy hoại tài sản… nếu người bị đe dọa không thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức…

    – Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (Điểm l Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này đã thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hành vi và tình trạng này không phải do lỗi của chủ thể như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh.

    – Phạm tội do lạc hậu (Điểm m Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội trong đó người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm.

    – Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điểm q Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh.

    – Người phạm tội tự thú (Điểm r Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.

    – Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, đã có biểu hiện thể hiện rõ đã day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động…

    – Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (Điểm t Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết.

    – Người phạm tội đã lấy công chuộc tội (Điểm u Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã có thành tích đột xuất, tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…

    – Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (Điểm v Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp này được áp dụng cho người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có bằng sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua…

    – Người phạm tội là phụ nữ có thai (Điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Tình tiết này được quy định chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng cũng có phần là do tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm sinh lí của người phụ nữ có thể bị ảnh hưởng khi mang thai.

    – Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên (Điểm o Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm sinh lí ở lứa tuổi này.

    – Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (Điểm p Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

    – Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (Điểm x Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này chủ yếu xuất phát từ chính sách của nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân của liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.

    Ngoài các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS được kể trên, tòa án còn có thể xác định tình tiết khác như tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng phải ghi rõ trong bản án (Khoản 2 Điều 51 BLHS).

    Các “tình tiết khác” theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

    Theo đó, căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các “tình tiết khác” bao gồm:

    – Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em một bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:

    – Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

    – Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

    – Người bị hại cũng có lỗi;

    – Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

    – Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

    – Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

    – Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

    Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thế nào?

    Thứ nhất, cần xác định đúng các nội dung mà nhà làm luật quy định về tình tiết giảm nhẹ đó như thế nào.

    Bạn phải hiểu được tính chất, mức độ giảm nhẹ khác nhau của mỗi tình tiết trong trường hợp cụ thể, xác định được trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào và xác định đủ số lượng các tình tiết được quy định tại mỗi điểm của Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

    Thứ hai, cần lưu ý rằng các tình tiết giảm nhẹ không phải là dấu hiệu định tội.

    Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có, thì nó cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ).

    Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình tiết giảm nhẹ, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

    Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ không phải là tình tiết định khung hình phạt cho tội phạm cụ thể. Những tình tiết định khung hình phạt tội phạm thực chất là những tình tiết cấu thành cho từng loại tội phạm.

    Về tình tiết giảm nhẹ đi kèm làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ít nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này.

    Thứ tư, trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hay Tòa án có thể xem xét áp dụng án treo khi mức hình phạt tù đối với người đó không quá 03 năm và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù…

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Những tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo pháp luật hiện hành 2022

    Những tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Hiến pháp 2013

    Bộ luật Dân sự 2015

    Nghị định 29/2018/NĐ-CP về trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản; xử lý với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.

    2. Sở hữu toàn dân là gì?

    Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 thì hình thức sở hữu được quy định tại Mục 2 Chương XIII gồm có sở hữu toàn dân, sở hữu riêng, sở hữu chung. Đối với mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện và các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản khác nhau.

    Chế độ sở hữu toàn dân là chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định chủ thể, khách thể, nội dung, phương thức thực hiện quyền sở hữu của toàn dân. Sở hữu toàn dân là hình thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà nước – người đại diện chính thức của nhân dân.

    Điều 53 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lí là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí”.

    Để thống nhất về đối tượng sở hữu toàn dân, Điều 197 Bộ luật Dân sự 2015 quy định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

    Theo quy định của Điều 4 Luật đất đai năm 2013 thì: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.

    Sở hữu toàn dân được hiểu là một hình thức sở hữu chung do toàn dân là chủ sở hữu mà Nhà nước là người đại diện, do đó không nên quy định sở hữu toàn dân như một hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân có sự khác biệt với các hình thức sở hữu chung khác nên cần quy định thành một mục riêng trong chế định về sở hữu chung.

    3. Thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân

    Căn cứ: Điều 198, 199, 200, 201, 202, 203, 204 Bộ luật Dân sự 2015

    3.1. Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân

    Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

    Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

    3.2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân

    Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định.

    3.3. Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp

    Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.

    3.4. Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân

    Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.

    Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thực hiện việc quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao.

    3.5. Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp

    Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.

    Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ.

    3.6. Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân

    Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thuỷ sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật.

    3.7. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý

    Đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý thì Chính phủ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo sát và lập quy hoạch đưa vào khai thác.

    4. Tài sản thuộc đối tượng xác lập quyền sở hữu toàn dân

    SỞ HỮU TOÀN DÂNCăn cứ: Điều 3 Nghị định 29/2018/NĐ-CP

    Tài sản thuộc đối tượng được xác lập quyền sở hữu toàn dân bao gồm:

    (i) Tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật gồm:

    • Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu.
    • Vật chứng vụ án, tài sản khác bị tịch thu theo quy định của pháp luật về hình sự, pháp luật về tố tụng hình sự.

    (ii) Tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy, tài sản không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật dân sự; hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan, gồm:

    • Bất động sản vô chủ hoặc không xác định được chủ sở hữu được xác lập quyền sở hữu toàn dân (sau đây gọi là bất động sản vô chủ).
    • Tài sản bị đánh rơi, bỏ quên không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận được xác lập quyền sở hữu toàn dân (sau đây gọi là tài sản bị đánh rơi, bỏ quên).
    • Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán mà tại thời điểm phát hiện hoặc tìm thấy không có hoặc không xác định được chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (sau đây gọi là tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm).
    • Tài sản là di sản không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có người thừa kế nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản hoặc hết thời hiệu yêu cầu chia di sản kể từ thời điểm mở thừa kế mà không có người chiếm hữu theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi là di sản không người thừa kế).
    • Tài sản là hàng hóa tồn đọng được lưu giữ tại khu vực cảng, kho, bãi thuộc địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan (sau đây gọi là hàng hóa tồn đọng).

    (iii) Tài sản của quỹ xã hội, tài sản của quỹ từ thiện bị giải thể nhưng không có quỹ khác có cùng Mục đích hoạt động nhận tài sản chuyển giao hoặc bị giải thể do hoạt động vi phạm Điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật dân sự (sau đây gọi là tài sản của quỹ bị giải thể).

    (iv) Tài sản do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hiến, biếu, tặng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ nhưng chưa hạch toán ngân sách nhà nước và hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác cho Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước).

    (v) Tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc thời hạn hoạt động.

    (vi) Tài sản được đầu tư theo hình thức đối tác công tư được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án.

    5. Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và quản lý, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân

    Căn cứ: Điều 4 Nghị định 29/2018/NĐ-CP

    Việc xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản phải được lập thành văn bản; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân có liên quan.

    Việc quản lý nhà nước đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thống nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan.

    Việc xác định giá trị và xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được thực hiện theo cơ chế thị trường.

    Việc xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

    6. Đơn vị chủ trì quản lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân

    Căn cứ: Điều 5 Nghị định 29/2018/NĐ-CP

    Cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao chủ trì quản lý, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân (sau đây gọi là đơn vị chủ trì quản lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân) được quy định như sau:

    + Đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu:

    • Cơ quan trình cấp có thẩm quyền ra quyết định tịch thu là đơn vị chủ trì quản lý tài sản trong trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh) hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện) ra quyết định tịch thu.
    • Cơ quan của người ra quyết định tịch thu là đơn vị chủ trì quản lý tài sản trong các trường hợp còn lại.

    + Đối với vật chứng vụ án, tài sản của người bị kết án bị tịch thu theo quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và đã có quyết định thi hành án của cơ quan có thẩm quyền, Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý đối với tài sản do cơ quan thi hành án cấp tỉnh và cơ quan thi hành án cấp quân khu chuyển giao, Phòng Tài chính Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (sau đây gọi là Phòng Tài chính Kế hoạch) là đơn vị chủ trì quản lý đối với tài sản do cơ quan thi hành án cấp huyện chuyển giao.

    + Đối với vật chứng vụ án do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định tịch thu, cơ quan đã ra quyết định tịch thu là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    + Đối với bất động sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, di sản không có người thừa kế, Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý đối với bất động sản, di tích lịch sử – văn hóa, Phòng Tài chính Kế hoạch là đơn vị chủ trì quản lý đối với động sản; trường hợp một vụ việc bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau (bất động sản hoặc di tích lịch sử – văn hóa và động sản) thì Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    + Đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm, Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    + Đối với tài sản của quỹ bị giải thể:

    • Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý tài sản đối với tài sản của quỹ xã hội, tài sản của quỹ từ thiện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện được ủy quyền quyết định giải thể.
    • Cơ quan trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quyết định giải thể là đơn vị chủ trì quản lý tài sản đối với tài sản của quỹ xã hội, tài sản của quỹ từ thiện do Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết định giải thể.

    + Đối với hàng hóa tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan, Cục Hải quan là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    + Đối với tài sản do các tổ chức, cá nhân tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam mà khi chuyển giao đã xác định cụ thể cơ quan, tổ chức, đơn vị được tiếp nhận, quản lý, sử dụng tài sản thì cơ quan, tổ chức, đơn vị tiếp nhận, quản lý, sử dụng tài sản là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    + Đối với tài sản do các tổ chức, cá nhân tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước Việt Nam mà khi chuyển giao không xác định cụ thể cơ quan, tổ chức, đơn vị được tiếp nhận, quản lý, sử dụng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao trách nhiệm chủ trì quản lý tài sản như sau:

    • Đối với tài sản của các dự án do các chuyên gia, nhà thầu, tư vấn nước ngoài thực hiện dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn viện trợ không hoàn lại chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam, Ban quản lý dự án là đơn vị chủ trì quản lý tài sản; trường hợp Ban quản lý dự án đã bị giải thể thì cơ quan chủ quản dự án là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dùng thuộc lĩnh vực quốc phòng, Bộ Quốc phòng hoặc đơn vị được Bộ Quốc phòng phân cấp là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dùng thuộc lĩnh vực an ninh, Bộ Công an hoặc đơn vị được Bộ Công an phân cấp là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản không thuộc phạm vi quy định tại các điểm a, b và c Khoản này chuyển giao cho Chính phủ, Bộ Tài chính hoặc đơn vị được Bộ Tài chính phân cấp là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản không thuộc phạm vi quy định tại các điểm a, b và c Khoản này chuyển giao cho chính quyền địa phương, Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc thời gian hoạt động, Sở Tài chính là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.
    • Đối với tài sản được đầu tư theo hình thức đối tác công tư được chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án, cơ quan ký hợp đồng đối tác công tư là đơn vị chủ trì quản lý tài sản.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Những tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015

    Chế định đồng phạm là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của pháp luật hình sự từ xưa đến nay. Theo đó thì tội phạm có thể chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có trường hợp lại do nhiều người cùng gây ra. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 thì trường hợp khi có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì được gọi là đồng phạm.

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Đồng phạm là gì?

    đồng phạmĐiều 17 Bộ luật Hình sự quy định về Đồng phạm như sau:

    Điều 17. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.

    Theo khoản 1 Điều 17 thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    Vậy tội phạm là gì?

    Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,

    do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,

    xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,

    xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

    Từ hai khái niệm về “Đồng phạm” và “Tội phạm”, có thể hiểu đồng phạm là những người cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm, mà khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người tham gia không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người khác trong vụ án đó.

    Việc cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí.

    Theo khái niệm “Đồng phạm” được xác định tại khoản 1 Điều 17 thì đồng phạm gồm các dấu hiệu sau:

    – Sự tham gia của hai người trở lên

    – Hai người đó cố ý cùng thực hiện một tội phạm: Mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi như sau:

    • Hành vi thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người thực hành;
    • Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người tổ chức;
    • Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người xúi giục;
    • Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.

    Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể coi là cùng thực hiện và do vậy cũng không phải là người đồng phạm.

    Trong vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải như vậy và có thể chỉ có một loại hành vi tham gia. Người người được coi là đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc quá trình phạm tội.

    2. Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm

    Chủ thể

    Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Tức là cả hai người đều phải có điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).

    Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không phải là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội đơn lẻ. Nếu trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hành.

    (i) Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

    Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

    Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

    (ii) Không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

    Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Đối với vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại: Bộ luật Hình sự 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại với 33 tội danh được liệt kê tại Điều 76.

    Về điều kiện chủ thể của tội phạm pháp nhân thương mại thì phải là tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, có điều kiện, tiêu chí cụ thể; và về nguyên tắc, khi thỏa mãn các dấu hiệu khách quan và chủ quan trong đồng phạm, thì tất cả các hành vi triển khai thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của pháp nhân, hành vi giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết nhằm hỗ trợ cho pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm đều được coi là đồng phạm.

    Mặt khách quan

    Những người đồng phạm phải cùng thực hiện một tội phạm. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm có thể đều thực hiện hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện một phần trong chuỗi hành vi để tạo thành một hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm.

    Mỗi người đồng phạm có thể cùng tham gia thực hiện tội phạm bởi một loại hành vi, nhưng cũng có thể tham gia với những hành vi khác nhau. Hành vi của người này bổ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu quả hơn.

    Hành vi tham gia thực hiện một tội phạm có thể là: hành vi trực tiếp thực hiện, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Nếu không có một trong bốn loại hành vi này thì không được coi là cùng thực hiện tội phạm, và vì thế cũng không phải là đồng phạm.

    Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả đối với hậu quả chung của tội phạm, hậu quả chung của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia thực hiện tội phạm đem lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của những người khác thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.

    Mặt chủ quan

    Những người đồng phạm đều cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:

    Về lý trí: Mỗi người đồng phạm đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Luật hình sự không đòi hỏi là mỗi người phải biết được cụ thể về số lượng cụ thể và hành vi của những người đồng phạm khác mà chỉ cần họ nhận thức được có sự tham gia của người khác và hành vi của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cùng phối hợp để thực hiện một tội phạm.

    Và trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và đều thấy trước hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.

    Về ý chí: Những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.

    Việc xác định hành vi, dấu hiệu chủ quan của pháp nhân thương mại sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ quan của những con người cụ thể đại diện cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân và giải quyết theo nguyên tắc thông thường như trường hợp đồng phạp giữa cá nhân với cá nhân.

    Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội trong đồng phạm

    Trong đồng phạm thì mục đích phạm tội và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, trong một số cấu thành tội phạm có quy định dấu hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội là dấu hiệu của tội phạm cụ thể thì để xác định có đồng phạm của tội phạm đó đòi hỏi phải xác định được tất cả những người đồng phạm đều có chung mục đích phạm tội, động cơ phạm tội đó, hoặc những người tham gia phạm tội không có cùng mục đích phạm tội, động cơ phạm tội nhưng đã biết và tiếp nhận mục đích, động cơ phạm tội của nhau.

    3. Những hành vi liên quan đến tội phạm cấu thành tội độc lập

    Trong Bộ luật Hình sự 2015 có một số hành vi liên quan đến tội phạm nhưng không coi là hành vi đồng phạm, bởi những hành vi đó không thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm. Đó là hành vi che giấu tội phạm và hành vi không tố giác tội phạm. Hai hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định rõ là hai tội phạm độc lập với các trường hợp đồng phạm.

    Hành vi che giấu tội phạm

    Căn cứ theo Điều 18 Bộ luật Hình sự 2015 thì hành vi che giấu tội phạm là hành vi “không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội”.

    Đặc điểm của hành vi này là:

    – Không có sự bàn bạc thỏa thuận, hứa hẹn trước giữa người có hành vi che giấu và người được che giấu.

    – Hành vi che giấu được thực hiện sau khi tội phạm đã kết thúc.

    – Lỗi luôn là lỗi cố ý trực tiếp.

    Luật pháp hiện nay không coi hành vi che giấu tội phạm là hành vi đồng phạm mà coi đây là hành vi có liên quan đến tội phạm. Trong những trường hợp nhất định, hành vi che giấu tội phạm được quy định là tội che giấu tội phạm.

    Hành vi không tố giác tội phạm

    Căn cứ Điều 19 BLHS 2015 thì hành vi không tố giác tội phạm là hành vi “biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác”.

    Đặc điểm của hành vi này đó là:

    – Hành vi này có thể xảy ra ở giai đoạn tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc tội phạm đã kết thúc.

    – Hành vi luôn dưới dạng hành vi không hành động.

    – Lỗi luôn là cố ý trực tiếp.

    Tương tự như hành vi che giấu tội phạm thì hành vi này được xác định liên quan đến tội phạm. Và trong một số trường hợp không tố giác được quy định là tội không tố giác tội phạm.

    5. Các hình thức đồng phạm

    Phân loại theo dấu hiệu chủ quan

    • Đồng phạm không có thông mưu trước: không có sự thỏa thuận bàn bạc trước, hoặc thỏa thuận không đáng kể
    • Động phạm có thông mưu trước: có sự thỏa thuận trước

    Phân loại theo dấu hiệu khách quan

    • Đồng phạm đơn giản: tất cả đồng phạm đều có vai trò là người thực hành
    • Đồng phạm phức tạp: ngoài người thực hành còn có các loại người khác

    Phạm tội có tổ chức

    • Hình thành với phương hướng hoạt động có tính chất lâu dài và bền vững
    • Có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện cũng như che giấu tội phạm

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Quy định về đại diện theo ủy quyền trong Bộ luật Dân sự 2015

    Quy định về đại diện theo ủy quyền trong Bộ luật Dân sự 2015

    Thông thường, khi tham gia vào các quan hệ dân sự thì chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Nhưng có nhiều trường hợp vì những lý do khách quan bất khả kháng hoặc những lý do chủ quan như: đau ốm, đi nước ngoài,… mà chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không có mặt để có thể tự mình xác lập và thực hiện giao dịch đó.

    Do đó, pháp luật để hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi cho mọi người trong pháp luật dân sự có cho phép chủ thể này ủy quyền cho chủ thể khác thay mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Và đó chính là đại diện theo ủy quyền. Bài viết này sẽ phân tích về “Quy định về đại diện theo ủy quyền trong Bộ luật Dân sự 2015”.

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Công văn 152/TANDTC-PC 2017 giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu

    2. Đại diện là gì? Đại diện theo uỷ quyền là gì?

    Điều 134. Đại diện

    1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
    2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
    3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.”

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 thì đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Đại diện có hai loại là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.

    uỷ quyềnĐại diện theo ủy quyền là trường hợp đại diện theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó, cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

    Về chủ thể đại diện theo ủy quyền: cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015).

    Cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

    Pháp nhân thì phải có tư cách pháp nhân trong quá trình tham gia quan hệ ủy quyền.

    Những chủ thể khác như tổ chức không phải là pháp nhân thì phải lựa chọn ra một cá nhân có đủ thẩm quyền để đại diện tổ chức đó tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền.

    Như vậy thì đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại diện) tiến hành xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên được đại diện “trao quyền” hợp pháp.

    3. Các trường hợp đại diện theo ủy quyền

    Các trường hợp đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015:

    – Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

    – Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

    Chẳng hạn, ông A đưa quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình ông thế chấp tại ngân hàng để vay vốn phát triển sản xuất nông nghiệp cho gia đình thì người vay trong hợp đồng tín dụng này là ông A (không phải là hộ gia đình) nên trong hợp đồng tín dụng chỉ cần ông A ký.

    Tuy nhiên, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải có chữ ký của tất cả các thành viên hộ gia đình (đối với thành viên không có hoặc chưa đủ năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật ký thay) hoặc có ủy quyền bằng văn bản của các thành viên hộ gia đình đó.

    – Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

    4. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện theo ủy quyền:

    – Người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba phải phù hợp với phạm vi đại diện. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.

    – Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.

    – Trường hợp người đại diện theo pháp luật biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

    5. Thời hạn đại diện theo ủy quyền:

    Đại diện theo ủy quyền chấm dứt khi:

    – Theo thỏa thuận

    – Thời hạn ủy quyền đã hết

    – Công việc được ủy quyền đã hoàn thành

    – Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền

    – Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại

    – Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Dân sự 2015.

    – Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.

    6. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền:

    Về phạm vi đại diện (Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015):

    – Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo các căn cứ: (i) Quyết định của Cơ quan có thẩm quyền; (ii) điều lệ của pháp nhân; (iii) nội dung ủy quyền; (iv) quy định khác của pháp luật.

    – Trường hợp không xác định được phạm vi đại diện theo các căn cứ nêu trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    – Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    – Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.

    Tại Điều 144 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ ràng đối với từng hình thức đại diện, theo pháp luật hay theo ủy quyền thì phạm vi ủy quyền tương ứng cụ thể ra sao. Đối với đại diện theo pháp luật, phạm vi ủy quyền được xác định căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xác định theo điều lệ của pháp nhân; đối với đại diện theo ủy quyền, phạm vi ủy quyền xác định căn cứ vào nội dung ủy quyền.

    Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định nhắc về phạm vi đại diện theo ủy quyền như sau:

    + Khi tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền thì người đại diện chỉ được phép thực hiện những giao dịch mà được người được đại diện ủy quyền cho. Nội dung ủy quyền này sẽ được xác lập theo sự thỏa thuận thống nhất của hai bên. Tóm lại phạm vi ủy quyền chỉ cần không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật thì theo sự ủy quyền này, người đại diện theo ủy quyền sẽ thực hiện những gì trong phạm vi mà mình được đại diện.

    + Phạm vi đại diện theo ủy quyền phải được người đại diện theo ủy quyền thông báo cho tất cả những chủ thể có liên quan khi tham gia giao dịch dân sự. Đây là trách nhiệm của người đại diện, đặc biệt đối với bên thứ ba, những người có quyền lợi và nghĩa vụ đối với giao dịch đó. Nếu đại diện theo ủy quyền nhưng không xác định rõ phạm vi đại diện thì chỉ thực hiện giao dịch vì lợi ích của người được đại diện, trừ luật có quy định khác.

    + Bất kỳ cá nhân, pháp nhân nào đều có thể làm đại diện theo ủy quyền của nhiều cá nhân, pháp nhân khác tuy nhiên nếu đã nhận sự ủy quyền của một chủ thể thì không thể tham gia giao dịch mà giữa mình với chính bên mình được ủy quyền, mình nhân danh đại diện cho chủ thể đó. Tóm lại, trừ các trường hợp luật định thì bên đại diện theo ủy quyền không được tiến hành thực hiện những giao dịch dân sự mà chủ thể giao dịch vừa là mình và chủ thể khác nhưng do mình đứng ra đại diện theo ủy quyền.

    Có thể thấy việc xác định phạm vi đại diện theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 khá rõ ràng, dễ hiểu, nội dung của điều luật thống nhất với tiêu đề của điều luật, không bị trùng lặp giữa quy định về phạm vi đại diện với căn cứ xác lập quan hệ đại diện và điều kiện làm phát sinh hiệu lực pháp lý của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập với người thứ ba.

    7. Về căn cứ xác lập quyền đại diện

    Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện theo cách thức liệt kê. Nêu chính xác đại diện bao gồm những cách xác lập nào.

    Đại diện theo ủy quyền xác lập theo ý chí giữa người được đại diện và người đại diện còn đại diện theo pháp luật xác lập theo quy định pháp luật, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân.

    Việc xác lập quyền đại diện được thực hiện như thế nào? Hiện nay, pháp luật dân sự đồng ý cho quan hệ này được xác lập thông qua cả hành động, lời nói và văn bản. Trong các trường hợp cụ thể tại các luật chuyên ngành thì đại diện theo ủy quyền bắt buộc phải được lập bằng văn bản và có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: đại diện theo ủy quyền liên quan đến các vấn đề đất đai, các loại động sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, ….

    8. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

    Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

    b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

    c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

    Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.

    Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

    Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

    9. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện

    Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người được đại diện đồng ý;

    b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

    c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.

    Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.

    Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

    Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Quy định về đại diện theo ủy quyền trong Bộ luật Dân sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?

    Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

    2. Áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi

    người dưới 18 tuổiTrong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan…

    Theo Điều 90 Bộ luật Hình sự: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

    Điều 12 Phần thứ nhất Bộ luật Hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

     2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

    3. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

    (i) Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

    Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

    (ii) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

    c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

    (iii) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

    (iv) Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

    (v) Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    (vi) Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

    Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    (vii) Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

    4. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi

    4.1. Điều kiện áp dụng

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.

    4.2. Các biện pháp 

    Khiển trách

    Khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

    Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;

    b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;

    c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.

    Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.

    Hòa giải tại cộng đồng

    Hòa giải tại cộng đồng được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.

    Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại;

    b) Nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.

    Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại điểm a khoản 3 Điều này và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này từ 03 tháng đến 01 năm.

    Giáo dục tại xã, phường, thị trấn

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.

    Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

    a) Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động;

    b) Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn;

    c) Không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép;

    d) Các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.

    Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

    5. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi

    Giáo dục tại trường giáo dưỡng

    Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

    Người được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.

    Chấm dứt trước thời hạn biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

    Nếu người được giáo dục tại trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng.

    6. Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

    Người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

    • Cảnh cáo;
    • Phạt tiền;
    • Cải tạo không giam giữ;
    • Tù có thời hạn.

    Phạt tiền

    Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

    Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.

    Cải tạo không giam giữ

    Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.

    Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

    Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.

    Tù có thời hạn

    Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

    • Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
    • Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

    7. Quy định về quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt, xoá án tích đối với người dưới 18 tuổi

    7.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

    Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.

    Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.

    Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.

    Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.

    Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.

    7.2. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.

    Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    a) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này;

    b) Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này.

    Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    a) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều này;

    b) Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.

    7.3. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

    Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này.

    Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 của Bộ luật này.

    7.4. Giảm mức hình phạt đã tuyên

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    7.5. Tha tù trước thời hạn có điều kiện

    Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Phạm tội lần đầu;

    b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;

    c) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;

    d) Có nơi cư trú rõ ràng.

    Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ luật này:

    3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.

     4. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.

     Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

     5. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

    7.6. Xóa án tích

    Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;

    c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.

    Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

    a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;

    b) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

    c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

    d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào?.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Hợp đồng thế chấp tài sản theo quy định pháp luật hiện hành 2022

    Hợp đồng thế chấp tài sản theo quy định pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Luật Công chứng 2014

    2. Khái niệm hợp đồng thế chấp tài sản

    Thế chấp tài sản theo quy định tại Bộ Luật Dân sự 2015 được hiểu là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình (bên thế chấp) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (bên nhận thế chấp).

    Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ, ngoài ra các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.

    Hợp đồng thế chấp tài sản là việc hai bên (bên thế chấp và bên nhận thế chấp) thoả thuận với nhau về việc thế chấp tài sản đảm bảo, sau đó lập hợp đồng để ghi nhận với nhau các thỏa thuận đó.

    Mục đích của hợp đồng thế chấp tài sản là để đảm bảo được quyền và lợi ích cho các bên, trong hợp đồng có thể thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ, đối tượng thế chấp, giá trị của đối tượng thế chấp, thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng, hiệu lực hợp đồng các phương thức giải quyết tranh chấp…Hợp đồng thế chấp là căn cứ pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, là cơ sở giải quyết tranh chấp giữa các bên.

    3. Đối tượng của hợp đồng thế chấp

    Tài sản thế chấp có thể là vật, quyền tài sản, giấy tờ có giá, tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản đang cho thuê, cho mượn cũng được dùng để thế chấp.

    Các bên có thể thỏa thuận dùng toàn bộ hoặc một phần tài sản để thế chấp

    – Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    – Trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ gắn với tài sản đó thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    – Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    – Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

    Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp.

    Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.

    Theo đó đối tượng của hợp đồng thế chấp Tài sản thế chấp có thể là vật, quyền tài sản, giấy tờ có giá, tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản đang cho thuê, cho mượn cũng được dùng để thế chấp. Đối với việc thế chấp các loại tài sản thì các bên cần thỏa thuận với nhau và thực hiện đúng theo quy định mà pháp luật đề ra. Và hợp đồng thế chấp phải có các nội dung do các bên thoa thuận với nhau đối với các loại tài sản để tránh xảy ra các mâu thuẫn và các trường hợp tranh chấp không đáng có.

    4. Hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản

    Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế chấp

    Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực khi đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, bao gồm:

    Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập

    Đối với chủ thể là cá nhân ký kết hợp đồng thế chấp thì phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cụ thể:

    • Người từ đủ mười tám tuổi, không thuộc các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, có quyền tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự.
    • Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
    • Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
    • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
    • Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.

    Đối với chủ thể là tổ chức thì người đứng ra ký hợp đồng phải là người đại diện hoặc là người có thẩm quyền để ký hợp đồng trong tổ chức đó.

     Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện:

    Các bên giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện: theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự khoản 2 Điều 3: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.

    Các bên chủ thể hợp đồng thế chấp trên cơ sở nhu cầu, lợi ích, họ tự nguyện tham gia quan hệ hợp đồng thế chấp, không được khống chế, ép buộc về vật chất, tinh thần đối với bất kỳ chủ thể nào. Hợp đồng suy cho cùng là quan hệ ý chí và ý chí của các chủ thể thể hiện ở cả bốn nội dung có hiệu lực của hợp đồng dân sự (điều kiện).

    Ý chí tự nguyện là vấn đề phức tạp nhất, vì “tự nguyện” là yếu tố cần thiết để đánh giá hợp đồng đó có trung thực không, có hiệu lực không. Tự nguyện yêu cầu phải có sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí. Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 quy định khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu

     Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội:

    Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Điều kiện này có nghĩa là toàn bộ những điều khoản mà các bên cam kết thỏa thuận phải tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và mục đích.

     Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định:

    Về nguyên tắc, hợp đồng thế chấp có thể được giao kết dưới nhiều hình thức, miễn là các bên có thể chứng minh được quan hệ hợp đồng.Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Hợp đồng thế chấp tài sản có thể lập dưới dạng văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.

    Tuy nhiên, cần lưu ý đối với một số hợp đồng cụ thể thì vẫn phải tuân theo quy định về hình thức. Chẳng hạn như đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bắt buộc phải lập thành văn bản và tiến hành thủ tục đăng ký thế chấp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp

    Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    Thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký

    Như vậy thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp mà các bên cần lưu ý đó là các thời điểm như từ lúc giao kết, hay thời điểm đăng ký. Trừ các trường hợp có thỏa thuận khác giữa các bên với nhau vì pháp luật dân sự luôn tôn trọng và ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên

    5. Hợp đồng thế chấp tài sản có phải công chứng?

    Không phải bất cứ một hợp đồng thế chấp tài sản nào cũng phải được công chứng nhưng đối với các loại tài sản mà luật chuyên ngành quy định thì các bên phải đi công chứng theo quy định của luật chuyên ngành chẳng hạn như tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở…

    Đối với các loại tài sản mà luật không bắt buộc phải đi công chứng thì các bên có thể xem xét để đi công chứng hay không.

    Tuy nhiên trên thực tế các bên nên đi công chứng vì hợp đồng công chứng sẽ được đảm bảo hơn về cả mặt nội dung và hình thức hợp đồng, và sẽ là căn cứ pháp lý có giá trị hơn cho việc giải quyết tranh chấp sau này nếu có.

    Chẳng hạn như theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và hợp đồng thế chấp nhà ở thuộc trường hợp phải công chứng, chứng thực.

    6. Tình huống minh hoạ

    Chào Luật sư! Tôi có câu hỏi cần tư vấn như sau:

    Tôi có cho một người bạn vay một khoản tiền là 2 tỷ để khởi nghiệp. Vì để đảm bảo người bạn này sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên tôi đã yêu cầu người bạn này phải thế chấp cho tôi mảnh đất của anh ấy và anh ấy đã đồng ý. Vậy thưa Luật sư, khi chúng tôi giao kết hợp đồng thế chấp như vậy thì cần lập hợp đồng dưới hình thức như thế nào? Mong được Luật sư sớm giải đáp cho tôi!

    Theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, hợp đồng thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản. Văn bản đó có thể là văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng chính. Dựa trên nguyên tắc, hợp đồng thế chấp có thể được các bên giao kết dưới nhiều hình thức khác nhau, miễn là khi giao kết hợp đồng, các bên có thể chứng minh được quan hệ hợp đồng.

    Tuy nhiên, trong một vài trường hợp cụ thể, khi giao kết hợp đồng thế chấp này cần phải tuân thủ quy định về mặt hình thức của pháp luật.

    Ví dụ như khi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất. Khoản 1 Điều 502 Bộ luật Dân sự có quy định về hình thức của hợp đồng về quyền sử dụng đất, theo đó, hợp đồng về quyền sử dụng đất cần phải được lập thành dạng văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, quy định của pháp luật về đất đai và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Như vậy, khi giao kết hợp đồng thế chấp với tài sản là quyền sử dụng đất thì anh cần phải lập thành văn bản. Khi tiến hành việc thế chấp quyền sử dụng đất, cần phải làm thủ tục và đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật về đất đai.

    Hợp đồng thế chấp với tài sản là quyền sử dụng đất cần được lập thành 4 bản, phải được công chứng, chứng nhận của công chứng nhà nước, địa phương nào chưa có công chứng nhà nước thì cần phải có chứng thực của ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.

    Hợp đồng thế chấp cần phải có cam kết của các thành viên trong gia đình. Tất cả các bản hợp đồng được lập có giá trị pháp lý ngang nhau, các bên giữ hợp đồng bao gồm:

    – Một bản hợp đồng có kèm theo bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trích lục hồ sơ về khu đất sử dụng để thế chấp do bên nhận thế chấp giữ (trừ những trường hợp quyền sử dụng của một diện tích đất được sử dụng để thế chấp cho nhiều bên cho vay trong trường hợp cùng cho vay trong một dự án đầu tư).

    – Một bản hợp đồng do cơ quan thế chấp giữ.

    – Một bản hợp đồng do bên thế chấp giữ.

    – Một bản hợp đồng do bên công chứng nhà nước hoặc do ủy ban nhân dân huyện nơi chứng thực văn bản giữ.

    Như vậy, anh cần lập hợp đồng thế chấp tài sản thành văn bản.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Hợp đồng thế chấp tài sản theo quy định pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015

    Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    ​2. Hợp đồng vô hiệu là gì?

    hợp đồng vô hiệuĐiều 385 Bộ luật Dân sự 2015 đưa ra khái niệm về hợp đồng như sau:

    Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

    Hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự. Do đó, hợp đồng phát sinh hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự:

    Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

    1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

    b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

    c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

    2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

    Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu

    Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

    Các trường hợp không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, cụ thể:

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

    Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

    Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

    Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

    Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

    Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

    Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

    • Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
    • Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
    • Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

    Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

    Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

    Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    + Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

    Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

    Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

    Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

    Bộ luật Dân sự 2015 không có điều khoản giải thích hợp đồng dân sự vô hiệu là gì nhưng tại khoản 1 Điều 407 có nêu: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.”

    Hiểu một cách đơn giản thì hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

    Điều 407. Hợp đồng vô hiệu

    1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
    2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
    3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.”

    Ngoài lý do vô hiệu do không đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì Điều 408 Bộ luật Dân sự còn quy định trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được, cụ thể:

    Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

    1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
    2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
    3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.

    Thông qua những phân tích và quy định cụ thể nêu trên, ta nhận thấy rằng, hợp đồng dân sự vô hiệu là một loại hợp đồng khi các bên giao kết và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan nên không có giá trị pháp lý, không phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên.

    Hiên nay, các loại hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần:

    • Hợp đồng vô hiệu toàn bộ: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là loại hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu, hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng đó.
    • Hợp đồng vô hiệu một phần: Hợp đồng vô hiệu một phần là một trong những loại hợp đồng được xác lập mà một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng đó.

    Đối với hợp đồng vô hiệu một phần, phần vô hiệu sẽ không có giá trị pháp lý. Nhưng, cần lưu ý rằng, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng thì các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành trên thực tiễn, nên các bên tham gia giao dịch vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phạm hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

    3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

    Hợp đồng dân sự vô hiệu cũng có những hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu bao gồm:

    • Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
    • Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

    Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

    • Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
    • Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
    • Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

    Như vậy, hợp đồng dân sự vô hiệu cũng sẽ có những hậu quả pháp lý trên.

    Theo như quy định của pháp luật thì hợp đồng chính vô hiệu sẽ làm chấm dứt hợp đồng phụ chứ không phải kéo theo việc làm vô hiệu hợp đồng phụ, khi hợp đồng phụ vô hiệu thì các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, còn khi hợp đồng phụ chấm dứt thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ không còn kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng giao dịch giữa các bên, đối với việc khi hợp đồng phụ chấm dứt các bên không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.

    Lưu ý:

    • Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
    • Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

    4. Xử lý hợp đồng vô hiệu

    Thứ nhất, khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu thì phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận:

    Các bên trong hợp đồng vô hiệu cần phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập hợp đồng và hoàn trả lại cho bên kia những gì đã nhận.

    Cần lưu ý rằng đối với trường hợp bên đã làm hư hỏng, giảm giá trị tài sản thì bên đó cần phải sửa chữa, phục hồi, nâng cấp lại tài sản như ban đầu.

    Trong trường hợp tài sản đó đã được làm tăng giá trị, bên nhận lại tài sản đã được làm tăng giá trị phải thanh toán thành tiền tương ứng với phần giá trị tài sản tăng thêm cho bên kia theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

    Thứ hai, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại:

    Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không bao gồm việc bồi thường các thiệt hại về tinh thần đối với người bị thiệt hại.

    Việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu không phải là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo quy định của pháp luật.

    Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị vô hiệu:

    Trong một số trường hợp nhất định, tuy bên có quyền bị vi phạm được yêu cầu cơ quan Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhưng cơ quan Tòa án có thể xem xét để bảo vệ quyền lợi của người ngay tình được quy định cụ thể tại Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015:

    • Đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015.
    • Còn trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba sẽ bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa theo quy định của pháp luật hiện hành.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Hợp đồng thuê tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015

    Hợp đồng thuê tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    2. Khái niệm hợp đồng thuê tài sản

    Điều 472. Hợp đồng thuê tài sản

    Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.

    Hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    3. Đặc điểm của hợp đồng thuê tài sản

    • Hợp đồng thuê tài sản là hợp đồng song vụ: Từ thời điểm có hiệu lực, các bên trong hợp đồng thuê tài sản đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Bên thuê tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản thuê và tiền thuê như đã thoả thuận. Bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê giao tài sản để sử dụng. Bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê sử dụng tài sản thuê đúng mục đích, công dụng, thời hạn, phương thức và trả lại tài sản thuê, tiền thuê.
    • Hợp đồng thuê tài sản là hợp đồng có đền bù: Mục đích của bên thuê là nhằm được sử dụng tài sản của người khác trong một thời hạn nhất định, ngược lại, bên cho thuê hướng tới việc thu được một khoản tiền khi cho người khác sử dụng tài sản của mình. Khoản tiền mà bên thuê tài sản phải trả cho bên có tài sản cho thuê là khoản đền bù. Khoản tiền thuê tài sản nhiều hay ít do sự thỏa thuận của các bên và thường dựa trên căn cứ thời hạn thuê, vật thuê và giá trị sử dụng của vật.
    • Hợp đồng thuê tài sản có thể là hợp đồng ưng thuận, có thể là hợp đồng thực tế: Do pháp luật hiện hành không có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng tài sản, đồng thời qua tính chất của hợp đồng thuê tài sản nên có thể nói rằng, tùy từng trường hợp mà hợp đồng thuê tài sản là hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế.

    Nếu các bên không có thỏa thuận khác về thời điểm có hiệu lực thì hợp đồng thuê tài sản là một hợp đồng ưng thuận bởi tại thời điểm giao kết, hợp đồng đã phát sinh hiệu lực dù tài sản thuê chưa được chuyển giao thực tế. Nếu các bên đã thỏa thuận hợp đồng chỉ có hiệu lực khi bên cho thuê đã chuyển giao tài sản thuê cho bên thuê thì hợp đồng đó là một hợp đồng thực tế.

    4. Ý nghĩa của hợp đồng thuê tài sản

    • Là căn cứ pháp lý phát sinh quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của bên thuê. Thông qua HĐ thuê tài sản, chủ sở hữu tài sản cho thuê đã thực hiện quyền năng sử dụng tài sản của mình thông qua hành vi của người thuê
    • Là căn cứ hợp pháp cho các bên khai thác triệt để tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng chưa khai thác hết tiềm năng, công suất, tránh lãng phí.
    • Là phương tiện pháp lý nhằm khắc phục tình trạng nhà sản xuất kinh doanh không có đủ tư liệu sản xuất vẫn có thể tiến hành sản xuất, kinh doanh qua việc sử dụng tài sản thuê.

    5. Đối tượng của hợp đồng thuê tài sản

    Khái niệm tài sản được hiểu theo nghĩa rộng, đó là vật chất (tài sản hữu hình, vô hình) dùng để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, sản xuất của cá nhân và các tổ chức. Do vậy, đối tượng của hợp đồng thuê tài sản là tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng. Quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, công nghệ… cũng có thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê.

    Hợp đồng thuê tài sản thường được sử dụng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Trong hợp đồng thuê tài sản, bên cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định. Hết hạn của hợp đồng, bên thuê phải trả lại tài sản mà mình đã thuê. Vì vậy, đối tượng của hợp đồng thuê tài sản phải là vật đặc định, không tiêu hao.

    Hợp đồng thuê nhà ở, thuê khoán tư liệu sản xuất cũng là một loại hợp đồng thuê tài sản nhưng đối tượng của nó là bất động sản, cho nên khi chuyển cho chủ thể khác, Nhà nước kiểm soát việc chuyển dịch đó. Việc cho thuê nhà ở, thuê khoán tư liệu sản xuất không những phải tuân theo các quy định về cho thuê tài sản mà còn phải tuân thủ các quy định riêng của từng loại hợp đồng đó.

    6. Hình thức của hợp đồng thuê tài sản

    Hợp đồng thuê tài sản có thể được xác lập dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. Phụ thuộc vào đối tượng của hợp đồng là động sản hay bất động sản mà hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng, các bên nên lựa chọn hình thức văn bản để đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích của mình, cũng như là chứng cứ quan trọng nếu xảy ra tranh chấp.

    • Nếu đối tượng của hợp đồng là tài sản mà nhà nước không kiểm soát khi chuyển nhượng hoặc tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng thuê tài sản phải được lập thành văn bản nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Văn bản do các bên viết tay hoặc đánh máy và có chữ ký của hai bên. Văn bản còn có thể là hóa đơn cho thuê ( nếu thuê lại cửa hàng có đăng ký kinh doanh). Tùy thuộc vào mối quan hệ giữa bên cho thuê và bên thuê, vào thời gian dài hay ngắn mà các bên có thể thỏa thuận bằng miệng hoặc bằng văn bản
    • Nếu đối tượng của hợp đồng là bất động sản hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì các bên trong HĐ thuê tài sản phải tuân theo quy định này.
    • Việc thuê quyền sử dụng đất phải tuân theo quy định của luật đất đai.

    7. Giá thuê

    Giá thuê do các bên thoả thuận hoặc do người thứ ba xác định theo yêu cầu của các bên, trừ trường hợp luật có quy định khác.

    Trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì giá thuê được xác định theo giá thị trường tại địa điểm và thời điểm giao kết hợp đồng thuê.

    8. Thời hạn thuê

    Thời hạn thuê do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì được xác định theo mục đích thuê.

    Trường hợp các bên không thoả thuận về thời hạn thuê và thời hạn thuê không thể xác định được theo mục đích thuê thì mỗi bên có quyền chấm dứt hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho bên kia trước một thời gian hợp lý.

    9. Giao tài sản thuê

    Bên cho thuê phải giao tài sản cho bên thuê đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng, thời điểm, địa điểm đã thoả thuận và cung cấp thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó.

    Trường hợp bên cho thuê chậm giao tài sản thì bên thuê có thể gia hạn giao tài sản hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại; nếu tài sản thuê không đúng chất lượng như thoả thuận thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa chữa, giảm giá thuê hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

    “Điều 477. Nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê

    1. Bên cho thuê phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thoả thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập quán bên thuê phải tự sửa chữa.

    2. Trường hợp tài sản thuê bị giảm sút giá trị sử dụng mà không do lỗi của bên thuê thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây:

    a) Sửa chữa tài sản;

    b) Giảm giá thuê;

    c) Đổi tài sản khác hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu tài sản thuê có khuyết tật mà bên thuê không biết hoặc tài sản thuê không thể sửa chữa được mà do đó mục đích thuê không đạt được.

    3. Trường hợp bên cho thuê đã được thông báo mà không sửa chữa hoặc sửa chữa không kịp thời thì bên thuê có quyền tự sửa chữa tài sản thuê với chi phí hợp lý, nhưng phải báo cho bên cho thuê và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí sửa chữa.

    10. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng

    Quyền của bên cho thuê

    Bên cho thuê phải là chủ sở hữu của tài sản hoặc có quyền cho thuê.

    Bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên thuê sử dụng tài sản không đúng mục đích, không đúng công dụng.

    Bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê phải trả tiền thuê đúng thời hạn đã thỏa thuận và có thể yêu cầu ký cược thế chấp. Nếu các bên không thỏa thuận – được thời hạn trả tiền thì thời hạn đó được xác định theo mục đích thuê.

    Bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận việc trả tiền thuê theo kỳ hạn mà bên thuê không trả tiền trong ba kỳ liên tiếp trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác

    Hết hạn của hợp đồng, bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê phải trả lại đúng tài sản đã thuê trong tình trạng như khi nhận. Nếu các bên có thỏa thuận về tỉ lệ hao mòn thì tài sản phải trong tình trạng như đã thỏa thuận. Trường hợp bên thuê làm mất, hư hỏng tài sản thuê thì phải bồi thường thiệt hại.

    Khi bên thuê chậm trả tài sản thuê thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê hoàn trả tài sản thuê và trả tiền thuê trong thời gian chậm trả và phải bồi thường thiệt hại; bên thuê phải trả tiền phạt vi phạm do chậm trả tài sản thuê, nếu có thỏa thuận.

    Nghĩa vụ của bên cho thuê

    Bên cho thuê có nghĩa vụ giao tài sản cho bên thuê đúng thời hạn, địa điểm.

    Phải bảo đảm tài sản cho thuê trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích cho thuê. Trường hợp tài sản thuê bị hư hỏng mà không phải do lỗi của bên thuê thì bên cho thuê phải sửa chữa, đổi tài sản khác hoặc phải bồi thường thiệt hại cho bên thuê. Trong trường hợp bên thuê đã thông báo việc hư hỏng của tài sản và yêu cầu bên cho thuê sửa chữa nhưng bên cho thuê không thực hiện yêu cầu đó, nếu bên thuê phải tự mình sửa chữa hư hỏng thì bên cho thuê phải chịu chi phí.

    Bên cho thuê có nghĩa vụ bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê trong suốt thời gian thuê. Khi có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản thuê mà bên thuê không được sử dụng tài sản ổn định thì bên thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, do lỗi của bên cho thuê nên bên thuê không sử dụng tài sản hết thời hạn của hợp đồng và có thể bị ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất, kinh doanh của mình.

    Trong trường hợp tài sản thuê là động sản thì địa điểm hoàn trả tài sản thuê là nơi cư trú hoặc trụ sở của bên cho thuê, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp tài sản thuê là gia súc, bên thuê phải hoàn trả gia súc đã thuê và cả gia súc được sinh ra trong thời gian thuê nếu không có thỏa thuận khác. Bên cho thuê phải thanh toán chi phí chăm sóc gia súc được sinh ra cho bên thuê.

    Quyền của bên thuê

    Bên thuê có quyền cho thuê lại tài sản mà mình đã thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý.

    Trường hợp tài sản thuê bị giảm sút giá trị sử dụng mà không do lỗi của bên thuê thì bên thuê có quyền yêu cầu bên cho thuê thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây:

    • Sửa chữa tài sản;
    • Giảm giá thuê;
    • Đổi tài sản khác hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu tài sản thuê có khuyết tật mà bên thuê không biết hoặc tài sản thuê không thể sửa chữa được mà do đó mục đích thuê không đạt được.

    Trường hợp bên cho thuê đã được thông báo mà không sửa chữa hoặc sửa chữa không kịp thời thì bên thuê có quyền tự sửa chữa tài sản thuê với chi phí hợp lý, nhưng phải báo cho bên cho thuê và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí sửa chữa.

    Nghĩa vụ của bên thuê

    Bên thuê tài sản có nghĩa vụ trả tiền thuê như đã thỏa thuận, phải bảo quản tài sản thuê, sử dụng tài sản thuê cẩn thận như của mình, đúng với công suất, tính năng tác dụng của tài sản. Nếu trong thời gian sử dụng tài sản bị hư hỏng nhỏ thì phải tự mình sửa chữa. Khi cho thuê lại tài sản, mọi sự hư hỏng, mất tài sản do người thuê lại gây ra thì bên thuê phải chịu trách nhiệm với bên cho thuê.

    Khi hết hạn của hợp đồng thuê tài sản, bên thuê phải trả lại tài sản trong tình trạng như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên. Chất lượng của tài sản bị hao hụt đi phụ thuộc vào thời gian sử dụng. Nếu thời gian sử dụng lâu, sự hao mòn càng lớn, giá trị của tài sản còn lại được trừ đi phần khấu hao khi sử dụng.

    Bên thuê phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản thuê trong thời gian chậm trả.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Hợp đồng thuê tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!