Luật sư cho tôi hỏi, pháp luật quy định như thế nào về giao dịch dân sự của người chưa thành niên? Và bố mẹ cháu Anh có thể làm gì để giải quyết vấn đề trong trường hợp sau đây:
Do cần tiền chơi điện tử, cháu Anh (12 tuổi) đã bán chiếc xe đạp mini Nhật mà bố mẹ mua cho để đi học với giá 01 triệu đồng cho chú Quang. Sau khi phát hiện con không đi xe đạp về nhà và nhiều lần tra hỏi, bố mẹ cháu Anh mới biết chiếc xe đã bị bán đi.
Bố mẹ cháu Anh đã tìm gặp chú Quang đề nghị được chuộc lại chiếc xe và hoàn trả chú Quang 01 triệu đồng nhưng chú Quang không đồng ý vì cho rằng việc mua bán giữa chú và cháu Anh là hoàn toàn tự nguyện, chú Quang không có trách nhiệm phải trả lại chiếc xe.
Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:
1. Căn cứ pháp lý về Giao dịch dân sự của người chưa thành niên:
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015;
- Khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015;
- Điều 125 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Giao dịch dân sự của người chưa thành niên được quy định như sau:
a. Khái niệm người chưa thành niên:
Căn cứ theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Người chưa thành niên:
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
- Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.”
Theo đó, cháu Anh mới chỉ 12 tuổi nên nằm trong độ tuổi chưa thành niên, cho nên giao dịch dân sự của cháu Anh sẽ do người đại diện theo pháp luật của cháu Anh xác lập, thực hiện.
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 21 BLDS 2015 quy định về Người chưa thành niên: “3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.”
Ở đây, cháu Anh chưa đủ 15 tuổi cho nên khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật là bố mẹ cháu Anh. Trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, tuy nhiên, trong trường hợp này, cháu Anh đã bán chiếc xe đạp nhằm phục vụ nhu cầu chơi điện tử của cháu, không được xem là nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
b. Giao dịch dân sự của người chưa thành niên:
Căn cứ theo Điều 125 BLDS 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:
“1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.”
c. Kết luận:
Theo đó, giao dịch giữa cháu Anh và chú Quang không nằm trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này. Vì thế, giao dịch dân sự giữa cháu Anh và chú Quang được coi là vô hiệu bởi cháu Anh chưa đủ 16 tuổi và giao dịch này không được sự đồng ý của bố mẹ cháu Anh.
Trong trường hợp này, các bên cần hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên và tiến hành thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trên cơ sở tự nguyện. Nếu không thỏa thuận giải quyết được trên cơ sở tự nguyện thì các bên có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực đất đai, dân sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.
Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Hotline: 0888181120