1. Căn cứ pháp lý
2. Thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ? Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm gì?
Hiện nay pháp luật chưa có khái niệm chính thức về “nguồn nguy hiểm cao độ”. Tuy nhiên có thể xác định thông qua những quy định sau:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.”
Theo đó, tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, các nguồn nguy hiểm cao độ được ví dụ như sau:
(1) Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự theo quy định tại khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008 là nguồn nguy hiểm cao độ.
(2) Vũ khí theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ là nguồn nguy hiểm cao độ.
Từ những nội dung trên có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ là những sự vật, vật chất, đối tượng mà khi sử dụng, bảo quản, cất giữ, trông coi luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm, rủi ro cao độ đối với tính mạng, sức khoẻ, tài sản của con người.
Về trách nhiệm của chủ sở hữu, theo khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 nêu trên thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm thực hiện quyền sở hữu đối với nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
Bao gồm những hoạt động sau:
– Vận hành
– Sử dụng;
– Bảo quản;
– Trông giữ;
– Vận chuyển.
Ngoài ra, khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm có trách nhiệm bồi thường.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm hiểm cao độ gây ra phải tuân thủ các nguyên tắc theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
(1) Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
(2) Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình;
(3) Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường;
(4) Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra;
(5) Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì thiệt hại này không bao gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm. Bởi vì, nguồn nguy hiểm cao độ là những phương tiện, máy móc, thiết bị nên khi gây thiệt hại thì chủ yếu là thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng chứ không gây ra thiệt hại về danh dự, nhân phẩm được.
Ngoài ra, do đây là nguồn nguy hiểm “cao độ” nên có thể gây ra thiệt hại cho bất cứ ai, kể cả chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng, quản lý, thậm chí là những người không có liên quan đến những nguồn nguy hiểm cao độ này. Vì vậy, pháp luật đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ khi chúng gây thiệt hại cho những “người xung quanh”, bất kể những người này không có quan hệ với nguồn nguy hiểm cao độ đó.
Thiệt hại phải do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Vì đối tượng được xác định ở đây là nguồn nguy hiểm cao độ nên cần phải làm rõ vấn đề: Thiệt hại xảy ra có phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không?.
Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ đối với các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp thì phải đang trong trạng thái hoạt động. Nếu những đối tượng này đang ở trạng thái “tĩnh” thì không thể xem là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Như vậy, khi các nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê tại Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 “đang hoạt động” mà gây thiệt hại thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Đối với chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải được coi là nguyên nhân trực tiếp và thiệt hại được coi là hậu quả kéo theo. Như vậy, có thể thấy rằng hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước và thiệt hại xảy ra sau. Chính vì thế, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ phát sinh khi sự “tự thân hoạt động” của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra.
Lỗi
Theo quy định tại khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
– Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, có thể thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi không tồn tại yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển. Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
5. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Căn cứ theo quy định tại Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 các chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là: (1) chủ sở hữu; (2) người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng.
Đối với chủ sở hữu
Pháp luật dân sự quy định buộc chủ sở hữu phải có trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật”.
Chủ sở hữu là người được thực hiện toàn bộ các quyền dân sự như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, trong đó có quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Vì vậy, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi đang chiếm hữu, sử dụng ngay cả khi mình có lỗi hay không có lỗi.
Ngoài ra, trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng mà người này gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Và những thỏa thuận khác này không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội.
Đối với người chiếm hữu, sử dụng
Khi chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải có trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp chủ chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, khi thuộc một trong các trường hợp sau thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường:
– Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Khi đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì chủ sở hữu có phải bồi thường nữa không?
Căn cứ vào khoản 2 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 thì chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì sẽ không phải bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Khi đó, trách nhiệm bồi thường thuộc về người được giao chiếm hữu, sử dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp có thỏa thuận khác được hiểu tại khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP là trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ:
– Thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
– Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước bằng tài sản hợp pháp, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường trong trường hợp chủ sở hữu có điều kiện bồi thường.
Đồng thời, khoản 3 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP có đề cập như sau:
Về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra quy định tại Điều 601 của Bộ luật Dân sự
…
- Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, khoản 4 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 và điểm b khoản 5 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP cũng xác định trường hợp liên đới chịu trách nhiệm khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Kết hợp từ những nội dung trên thì khi đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phải bồi thường trong 03 trường hợp:
– Đã có thỏa thuận giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng;
– Việc giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định;
– Có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Trường hợp nào chủ sở hữu nguồn nguy hiểm không cần phải bồi thường?
Căn cứ khoản 2 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015, khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015, khoản 4 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015, khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, khoản 4 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP và khoản 5 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP.
Các trường hợp chủ sở hữu không cần phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như sau:
– Đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng một cách hợp pháp;
– Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết;
– Nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà chủ sở hữu không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật;
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (2023)
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!