1. Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn xét xử xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
2. Khái niệm hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Hiếp dâm người dưới 16 tuổi được hiểu là hành vi dùng vũ lực đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái ý muốn của nạn nhân hoặc sau cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
3. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định của Bộ luật Hình sự
“Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Đối với người dưới 10 tuổi;
d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
4. Các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ, hoặc Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi, không phân biệt trái ý muốn nạn nhân hay nạn nhân đồng ý.
Nếu nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đồng ý cho giao cấu thì người đó sẽ bị xử lý hình sự về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP:
- Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
- Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi như: Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
- Dùng vũ lực: là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người khác nhằm đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu. Ví dụ: vật ngã, xé quần áo, trói, giữ tay chân . . . đè bẹp sự phản kháng của nạn nhân để giao cấu trái ý muốn của họ . . .
- Đe dọa dùng vũ lực: dùng lời nói, cử chỉ, hành động đe dọa sẽ dùng sức mạnh vật chất xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân làm họ tê liệt ý chí để giao cấu trái ý muốn của họ. Khi nhận định về sự đe dọa dùng vũ lực này cần chú ý đến không gian, thời gian, mức độ tấn công cũng như lời đe dọa để đánh giá và nhận định.
- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân: đó là trường hợp nạn nhân đang trong hoàn cảnh ốm đau, bệnh tật, tai nạn bị ngất, mê man bất tỉnh, bị tiêm thuốc ngủ…không thể chống cự được để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn đối với họ.
- Dùng thủ đoạn khác: là ngoài những thủ đoạn nêu trên, người phạm tội có những hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể kháng cự được nhằm giao cấu trái ý muốn đối với họ.
Tội phạm coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có hành vi giao cấu với nạn nhân, không kể việc giao cấu đã kết thúc hay chưa.
Khách thể của tội phạm
Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi.
Hành vi hiếp dâm lưu trên xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân là người dưới 16 tuổi, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của người dưới 16 tuổi.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện đối với lỗi cố ý trực tiếp.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên. Nhưng riêng đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã phải chịu trách nhiệm hình sự.
5. Khung hình phạt của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Khung cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng với các trường hợp:
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
- Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm khi phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Có tính chất loạn luân
Được hiểu là người phạm tội đã hiếp dâm người dưới 16 tuổi là người có cùng dòng máu về trực hệ (như giữa cha mẹ với con cái; giữa ông bà nội, ngoại với cháu nội, ngoại) hoặc là người có quan hệ ruột thịt như anh, chị, em cùng cha mẹ; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
- Làm nạn nhân có thai
Hiếp dâm mà làm nạn nhân có thai là do hành vi hiếp dâm của người phạm tội mà nạn nhân có thai, tức là cái thai của nạn nhân là kết quả của việc giao cấu giữa người phạm tội với nạn nhân.
Nếu nạn nhân tuy có bị hiếp dâm nhưng việc nạn nhân có thai lại là kết quả của việc giao cấu giữa nạn nhân với người khác thì người phạm tội hiếp dâm không phải chịu tình tiết “làm nạn nhân có thai”.
Nói chung thực tiễn xét xử trường hợp phạm tội này thường xảy ra đối với người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại nhiều lần, người phạm tội không từ chối cái thai trong bụng nạn nhân là của mình, nên rất ít khi phải trưng cầu giám định.
Tuy nhiên, kết quả giám định cũng không phải chứng cứ duy nhất để xác định cái thai trong bụng nạn nhân có phải là của người phạm tội không.
Vì vậy, để xác định nạn nhân có thai có đúng là do hành vi hiếp dâm gây ra không, cần phải đánh giá một cách khách quan toàn diện; chỉ khi nào có đủ căn cứ xác định nạn nhân có thai là do hành vi hiếp dâm gây ra thì người phạm tội hiếp dâm mới phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điểm b Khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
Sau khi bị xâm hại nạn nhân có thể bị ám ảnh bởi các hành vi đồi bại của người phạm tội từ đó dẫn đến trầm cảm, tự kỉ, rối loạn tâm thần ở mức độ nhẹ mà kết quả của cơ quan giám định cho thấy tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60% thì áp dụng điểm này.
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh
Người phạm tội và người bị hại trong trường hợp này phải có mối quan hệ, trong đó người phạm tội có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan hệ chăm sóc như người nuôi dưỡng đối với người được nuôi dưỡng, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân,…
Khi xét đến các quan hệ này, cần chú ý là chỉ khi nào hành vi phạm tội của người có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh đã lợi dụng sự chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh để hiếp dâm người được chăm sóc, được giáo dục hoặc được chữa bệnh thì mới thuộc trường hợp phạm tội này, nếu hành vi hiếp dâm không liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
- Phạm tội 02 lần trở lên
Được hiểu là có tất cả hai lần phạm tội trở lên mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Đồng thời trong các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và đang còn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Đối với 02 người trở lên
Là trường hợp một người đã hiếp dâm từ hai người trở lên hoặc nhiều người cùng hiếp dâm từ hai người trở lên. Đây là trường hợp có nhiều người bị hiếp, trong đó ít nhất mỗi người bị hiếp một lần, còn người phạm tội có thể là một người hoặc nhiều người. Vì vậy khi xác định hành vi phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải phân biệt:
Nếu có một người hiếp dâm từ hai người trở lên và tất cả nạn nhân chỉ bị hiếp một lần, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm e Khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
Nếu có một người hiếp dâm từ hai người trở lên, trong đó có nạn nhân bị hiếp một lần, có nạn nhân bị hiếp nhiều lần, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo cả hai Điểm đ và Điểm e Khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
Nếu có nhiều người phạm tội (phạm tội có tổ chức hoặc là đồng phạm thông thường), trong đó có nhiều người bị hiếp nhưng tất cả nạn nhân chỉ bị hiếp một lần thì tất cả người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm e Khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự. Nếu là phạm tội có tổ chức thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm a Khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự. Nếu có một người bị hai người trở lên hiếp thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm b Khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
- Tái phạm nguy hiểm
Người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc một các trường hợp quy định tại Khoản 1, Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự. Hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự có mức phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình khi phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Có tổ chức
Phạm tội có tổ chức bao gồm nhiều người cùng tham gia, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có tổ chức, hiện hành vi hiếp dâm một người dưới 16 tuổi. Cũng được xem là nhiều người cùng hiếp dâm một người trong trường hợp có hai người trở lên bàn bạc với nhau là tất cả sẽ thay phiên nhau hiếp dâm một người, nhưng trong quá trình thực hiện tội phạm thì chỉ một hoặc một số người thực hiện hành vi hiếp dâm.
Trong trường hợp có từ hai người trở lên cấu kết chặt chẽ với nhau để tổ chức, giúp sức cho một người trong số họ hiếp dâm thì không được xem là nhiều người hiếp dâm một người mà là trường hợp phạm tội có tổ chức. Nhưng nếu trong trường hợp này có hai người trở lên cùng thực hiện hành vi hiếp dâm thì những người này đồng thời phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hai trường hợp: phạm tội có tổ chức và nhiều người hiếp dâm một người theo Điểm a, b Khoản 3 của điều luật này.
- Nhiều người hiếp một người
- Đối với người dưới 10 tuổi
Hành vi hiếp dâm người dưới 10 tuổi là hành vi phạm tội mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phải chịu hình phạt thích đáng nhất. Nguyên tắc áp dụng Điểm này là khi xử phạt người phạm tội nếu độ tuổi của nạn nhân càng nhỏ thì mức án mà người phạm tội phải gánh chịu càng cao.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên
Gây rối loan tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên cũng là một điểm mới được Bộ luật Hình sự ghi nhận. Hậu quả của hành vi hiếp dâm của người phạm tội rất có thể để lại dư chấn nặng nề trong tinh thần và hành vi của nạn nhân như tâm thần, rối loạn nhận thức,…
Việc xác định mức độ còn phụ thuộc vào kết quả giám định của cơ quan y tế có chuyên môn. Quy định điều này cho thấy rằng nếu mức độ hậu quả mà người phạm tội mang lại cho bị hại càng cao thì hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu càng nặng.
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội
Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn hiếp dâm, tức là cố ý lây truyền HIV cho người khác bằng hành vi hiếp dâm, làm cho tính chất và mức độ của hành vi hiếp dâm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp hiếp dâm bình thường.
Khi áp dụng tình tiết này đối với người phạm tội cần chú ý một số điểm như sau:
Nếu có căn cứ cho rằng người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn hiếp dâm thì mới áp dụng tình tiết này, nếu người phạm tội bị niễm HIV thật nhưng họ hoàn toàn không biết, sau khi phạm tội cơ quan Y tế mới xét nghiệm thấy người phạm tội bị nhiễm HIV thì không áp dụng tình tiết này đối với người phạm tội.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!