1. Căn cứ pháp lý
2. Khái niệm, phân loại khung hình phạt
Khái niệm
Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.
Khung hình phạt là giới hạn phạm vi các loại cũng như mức hình phạt được luật quy định cho phép Tòa án lựa chọn trong đó hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội.
Đối với mỗi tội phạm luật có thể chỉ quy định một khung hình phạt nhưng thông thường quy định nhiều khung hình phạt để áp dụng cho những loại trường hợp phạm tội khác nhau của tội đó.
Phân loại
Khung hình phạt được phân loại tương ứng với cấu thành tội phạm. Theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì cấu thành tội phạm được phân thành ba loại: cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ. Tương ứng với phân loại cấu thành tội phạm, khung hình phạt cũng được phân thành khung hình phạt cơ bản, khung hình phạt tăng nặng và khung hình phạt giảm nhẹ.
Khung hình phạt cơ bản là khung hình phạt được quy định cho trường hợp phạm tội thông thường của một loại tội. Mỗi tội phạm đều phải có một khung hình phạt cơ bản. Thông thường khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 của điều luật quy định về tội phạm cụ thể.
Khung hình phạt giảm nhẹ là khung hình phạt được quy định cho trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm giảm xuống một cách khác hẳn so với trường hợp thông thường của một loại tội. Đối với một tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt giảm nhẹ
Hình phạt tăng nặng là khung hình phạt trường hợp vì có tình tiết nhất định mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên một cách khác thông thường của một loại tội. Đối với mỗi tội phạm có thể không có, có một hoặc có nhiều khung hình phạt tăng nặng.
2. Tình tiết định khung tăng nặng là gì?
Định khung là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi phạm tội đã được định tội danh.
Các tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ một mức độ đáng kể tính chất nguy hiểm của một loại tội (như ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng).
Các tình tiết định khung là những tình tiết mà nhà làm luật dự định nếu có thì Toà án phải áp dụng ở khung hình phạt mà điều luật quy định có tình tiết đối với người phạm tội.
Ví dụ:
Một người mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác theo quy định tại Khoản 2, Điều 154, Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp là một trong những tình tiết định khung. Các tình tiết định khung hay còn gọi là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu cấu thành nên sự tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Dấu hiệu định khung hình phạt phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội phù hợp với một khung hình phạt nhất định.
Những dấu hiệu định khung có thể là dấu hiệu thuộc về mặt khách quan như dấu hiệu mức độ hậu quả hoặc thuộc về mặt chủ quan như tính chất của động cơ hoặc thuộc về nhân thân như tái phạm, tái phạm nguy hiểm…
Ví dụ: Phạm tội đối với từ 02 đến 05 người là tình tiết định khung tăng nặng đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151, Bộ Luật Hình sự năm 2015.
3. Các tình tiết định khung tăng nặng theo quy định pháp luật hiện hành
“Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.”
– “Phạm tội có tổ chức” được hiểu là hình thức đồng phạm đặc biệt được ghi nhận tại khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đồng phạm. Theo quy định này, đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hình thức đồng phạm này cho phép những người tham gia có khả năng cao để phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn và đặc biệt lớn cho xã hội.
Chính vì vậy, đây được coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như quy mô của tội phạm mà những người đó thực hiện, mức độ câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm và vai trò cụ thể của từng người.
– “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và việc phạm tội là nguồn sống, nguồn thu nhập chính của họ. Trường hợp phạm tội này thể hiện tính nguy hiểm cao hơn so với những trường hợp phạm tội thông thường, vì vậy được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc xử lý được nêu tại điểm d khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự 2015 là nghiêm trị người phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.
– “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là tình tiết thể hiện việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một thủ đoạn để người phạm tội thực hiện tội phạm. Trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội có được uy tín, sự ảnh hưởng đối với người khác, vì vậy họ đã lợi dụng điều này để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây ảnh hưởng đến uy tín của người cán bộ, uy tín của Nhà nước.
Do đó, trường hợp phạm tội này cần phải được tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tầm quan trọng của chức vụ, quyền hạn và mức độ lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó của người phạm tội.
– “Phạm tội có tính chất côn đồ” được hiểu là trường hợp phạm tội mà hành vi phạm tội thể hiện sự hung hãn, ngang ngược, coi thường pháp luật, coi thường người khác, phạm tội có thể vì những nguyên cớ rất nhỏ nhặt. Ở đây, để áp dụng tình tiết này cần phải dựa vào hành vi của người phạm tội chứ không dựa vào chính bản thân người thực hiện hành vi đó.
Nếu người thực hiện hành vi phạm tội vốn là người có thái độ ngang ngược, vô văn hóa, hung hãn, nhưng khi thực hiện hành vi, tính chất ngang ngược, coi thường người khác, coi thường pháp luật không thể hiện rõ thì không có căn cứ để áp dụng tình tiết này.
Ngược lại, nếu một người thực hiện hành vi phạm tội vì lý do nhỏ nhặt, không đáng, thể hiện rõ thái độ xấc xược, ngang tàng, hung hãn, coi thường người khác, coi thường pháp luật, thì dù trước đó, trong cuộc sống họ chưa bao giờ thể hiện thái độ này, họ vẫn bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.
– “Phạm tội vì động cơ đê hèn” được hiểu là động cơ phạm tội của người phạm tội ở đây là động cơ mang tính hèn nhát, bội bạc, phản trắc, thể hiện sự ích kỷ. Chẳng hạn như phạm tội đối với người mà mình mang ơn, phạm tội để trốn tránh trách nhiệm mà mình gây ra,…
Đây là tình tiết phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội và mức độ lỗi trong trường hợp này nghiêm trọng hơn bình thường, do đó, tình tiết này được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
– “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” là tình tiết người phạm tội trong trường hợp này thể hiện ý chí quyết tâm cao khi thực hiện tội phạm thông qua việc họ tìm mọi cách cố gắng khắc phục trở ngại, khó khăn nhằm thực hiện tội phạm đến cùng. Vì vậy, mức độ lỗi của người phạm tội ở đây nghiêm trọng hơn so với những trường hợp thông thường khác.
Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào khó khăn mà người phạm tội cần phải khắc phục và mức độ cố gắng, quyết tâm khắc phục trở ngại để thực hiện tội phạm đến cùng của họ.
– Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” được hiểu là trước lần phạm tội này, người phạm tội đã thực hiện tội phạm ít nhất một lần trước đó và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội lần này là sự lặp lại tội mà người đó đã phạm trước đó nên thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường.
Mức độ tăng nặng của tình tiết này tùy thuộc vào số lần phạm tội trước đó cũng như tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người đó đã thực hiện trong từng lần.
– “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng đã được quy định cụ thể tại Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”
– “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định này, các đối tượng bị xâm hại ở đây là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, là những người không có, hoặc khả năng tự vệ thấp cần phải được người khác bảo vệ. Hành vi phạm tội ở đây đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ của Nhà nước đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người cao tuổi. Do vậy, những trường hợp phạm tội đối với các đối tượng đặc biệt này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với các trường hợp khác.
– “Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”.. Hành vi phạm tội đối với những người này được xem là nghiêm trọng hơn những trường hợp bình thường.
Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được là người do thể trạng yếu đuối hoặc bệnh tật dẫn đến không có khả năng chống lại hành vi phạm tội, không có khả năng tự bảo vệ mình. Người lệ thuộc vào người phạm tội là những người khống chế bởi các mối quan hệ ràng buộc với người phạm tội về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác như tôn giáo, tín ngưỡng,…
Hiện nay, trong Bộ luật Hình sự 2015, các đối tượng được bảo vệ đặc biệt đã được mở rộng thêm, bao gồm cả “người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức”. Các đối tượng này đã được làm rõ trong nội dung các tình tiết giảm nhẹ đã phân tích ở phần trên. Quy định mở rộng đối tượng trong tình tiết này thể hiện chính sách bảo vệ đặc biệt đối với nhóm đối tượng yếu thế, không có hoặc hạn chế khả năng tự vệ.
– “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng thời điểm xã hội đang khó khăn, phức tạp để dễ dàng thực hiện tội phạm.
Hoàn cảnh đặc biệt này xảy ra trong xã hội đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, khắc phục khó khăn, tuy vậy người phạm tội đã không giúp đỡ khắc phục, còn có hành vi làm tăng thêm những khó khăn đang có của xã hội. Chính vì vậy, hành vi phạm tội có tình tiết này thể hiện tính chất nghiêm trọng cao hơn bình thường.
– “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội”. Thủ đoạn phạm tội tinh vi là những mánh khóe, cách thức thực hiện tội phạm phức tạp, kín đáo, khó bị phát hiện. Thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác là việc thực hiện tội phạm với cách thức thâm độc, tàn nhẫn, man rợ, gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần cho chính nạn nhân hoặc người thân của họ. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ tinh vi, tàn nhẫn, thâm độc của thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện.
– “Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội”, tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội dùng cách thức, công cụ, phương tiện có khả năng đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhiều người khi thực hiện tội phạm. Chẳng hạn như dùng chất nổ, chất cháy, ném lựu đạn, dùng súng bắn vào đám đông, bỏ độc vào bể nước sinh hoạt chung,…
Tình tiết này chỉ đòi hỏi thủ đoạn, công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng, đặt trong điều kiện nhất định có khả năng gây nguy hại cho nhiều người mà không đòi hỏi khả năng đó phải thực sự xảy ra. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của thủ đoạn, phương tiện mà người phạm tội lựa chọn.
– “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, tình tiết tăng nặng này được hiểu là người phạm tội đã có hành vi dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm. Người xúi giục ở đây hoàn toàn nhận thức được người đang bị mình xúi giục phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết này phụ thuộc vào số lượng người bị xúi giục, độ tuổi của người bị xúi giục và tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện.
– “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm” là trường hợp người phạm tội đã có hành vi gian dối, quỷ quyệt hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm đánh lạc hướng điều tra, trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. Mức độ gian dối, hung hãn cao, thì mức độ trách nhiệm hình sự càng nặng.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết định khung tăng nặng theo Bộ luật Hình sự 2015.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!