1. Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019
2. Thế nào là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
Hiện nay trong Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung và các văn bản pháp luật liên quan đều không có quy định cụ thể về khái niệm “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.
Tuy nhiên, có thể hiểu:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những dấu hiệu chủ quan hoặc khách quan của hành vi phạm tội, không phải là dấu hiệu định tội hay định khung hình phạt mà chỉ là căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015
Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bao gồm:
“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”
Các tình tiết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (Điểm a Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm.
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm.
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (Điểm h Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc xảy ra thiệt hại không lớn.
Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó.
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Điểm i Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điểm c Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có động cơ là phòng vệ. Hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép.
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điểm d Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội có tính chất tương tự như trường hợp trên.
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điểm đ Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết.
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra (Điểm e Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân.
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra (Điểm g Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại.
Trong đó, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tại, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác.
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (Điểm k Khoản 1 Điều BLHS): Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Do bị đe dọa hoặc cưỡng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức.
Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như dọa sẽ gây thương tích, dọa sẽ hủy hoại tài sản… nếu người bị đe dọa không thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức…
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (Điểm l Khoản 1 Điều 51 BLHS): Người phạm tội trong trường hợp này đã thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hành vi và tình trạng này không phải do lỗi của chủ thể như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh.
– Phạm tội do lạc hậu (Điểm m Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội trong đó người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm.
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điểm q Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh.
– Người phạm tội tự thú (Điểm r Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.
– Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, đã có biểu hiện thể hiện rõ đã day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động…
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (Điểm t Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết.
– Người phạm tội đã lấy công chuộc tội (Điểm u Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phạm tội đã có thành tích đột xuất, tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (Điểm v Khoản 1 Điều 51 BLHS): Trường hợp này được áp dụng cho người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có bằng sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua…
– Người phạm tội là phụ nữ có thai (Điểm n Khoản 1 Điều 51 BLHS): Đây là trường hợp người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Tình tiết này được quy định chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng cũng có phần là do tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm sinh lí của người phụ nữ có thể bị ảnh hưởng khi mang thai.
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên (Điểm o Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm sinh lí ở lứa tuổi này.
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (Điểm p Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (Điểm x Khoản 1 Điều 51 BLHS): Việc quy định tình tiết này chủ yếu xuất phát từ chính sách của nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân của liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.
Ngoài các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS được kể trên, tòa án còn có thể xác định tình tiết khác như tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng phải ghi rõ trong bản án (Khoản 2 Điều 51 BLHS).
Các “tình tiết khác” theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự
Theo đó, căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các “tình tiết khác” bao gồm:
– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em một bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
– Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
– Người bị hại cũng có lỗi;
– Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
– Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
3. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thế nào?
Thứ nhất, cần xác định đúng các nội dung mà nhà làm luật quy định về tình tiết giảm nhẹ đó như thế nào.
Bạn phải hiểu được tính chất, mức độ giảm nhẹ khác nhau của mỗi tình tiết trong trường hợp cụ thể, xác định được trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào và xác định đủ số lượng các tình tiết được quy định tại mỗi điểm của Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Thứ hai, cần lưu ý rằng các tình tiết giảm nhẹ không phải là dấu hiệu định tội.
Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có, thì nó cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ).
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình tiết giảm nhẹ, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ không phải là tình tiết định khung hình phạt cho tội phạm cụ thể. Những tình tiết định khung hình phạt tội phạm thực chất là những tình tiết cấu thành cho từng loại tội phạm.
Về tình tiết giảm nhẹ đi kèm làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ít nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này.
Thứ tư, trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hay Tòa án có thể xem xét áp dụng án treo khi mức hình phạt tù đối với người đó không quá 03 năm và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù…
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành 2022.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.
CÔNG TY LUẬT PT
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Xin trân trọng cảm ơn!