Không tố giác tội phạm có bị xem là đồng phạm hay không?

Không tố giác tội phạm có bị xem là đồng phạm hay không?

Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

Căn cứ pháp lý

Bộ luật Hình sự 2015

Không tố giác tội phạm là gì?

Căn cứ theo khoản 1 Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 138 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội không tố giác tội phạm như sau:

1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”.

Như vậy, “không tố giác tội phạm” là việc biết mà không báo, phát hiện hành vi phạm tội mà coi như không biết, im lặng, không trình báo cho cơ quan chức năng được biết để xử lý. Việc phát hiện tội phạm có thể diễn ra khi người phạm tội đang trong quá trình chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội hoặc trong khi hành vi phạm tội đang được thực hiện hoặc đã thực hiện xong.

Lưu ý: Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương 13 của Bộ luật Hình sự 2015 hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đồng phạm là gì?

Căn cứ vào Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tội đồng phạm như sau:

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.

Theo đó, người đồng phạm bao gồm:

– Người tổ chức: Là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Lưu ý rằng, không phải mọi vụ án đồng phạm đều có người tổ chức. Người giữ vai trò là người tổ chức sẽ thường xuất hiện trong các vụ án phạm tội có tổ chức.

– Người thực hành: Là người trực tiếp thực hiện tội phạm, hành vi đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm bởi họ là người trực tiếp thực hiện phạm tội. Dù đồng phạm giản đơn hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành.

– Người xúi giục: Là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi xúi giục thực hiện trước khi người thực hành thực hiện hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, hành vi xúi giục phải cụ thể nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể. Trường hợp hành vi đó chỉ là lời nói có tính chất thông báo, gợi ý chung chung không cụ thể thì không thể coi là người xúi giục.

– Người giúp sức: Là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi của người giúp sức được thể hiện như sau:

+ Cung cấp công cụ, phương tiện, thông tin cần thiết để thực hiện tội phạm;

+ Khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm;

+ Hứa che giấu người phạm tội hoặc hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có…

+ Hành vi này không trực tiếp gây thiệt hại cho khách thể mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm.

Trong đó, một vụ án đồng phạm không phải lúc nào cũng có đủ 04 loại người đồng phạm nêu trên, một người có thể đóng nhiều vai trò đồng phạm.

Không tố giác tội phạm có bị xem là đồng phạm hay không?

Căn cứ vào Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015, có thể thấy rằng không tố giác tội phạm và đồng phạm là hai hành vi khác nhau. Mỗi tội danh sẽ có những đặc điểm, dấu hiệu phạm tội riêng biệt.

Dấu hiệu phân biệt lớn nhất chính là hành vi phạm tội của hai tội danh:

– Không tố giác tội phạm là hành vi biết rõ người khác đã và đang thực hiện việc phạm tội nhưng không thực hiện việc tố cáo tội phạm đó. Đây là hành vi mang tính chất không thực hiện một hành vi cụ thể.

– Đồng phạm là hành vi cố ý cùng người phạm tội thực hiện một tội phạm. Đây là hành vi mang tính chất cố ý thực hiện một hành phạm tội trên thực tế dù có hậu quả hay không.

Chủ thể của hành vi “Không tố giác tội phạm” là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, những đối tượng sau đây không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm: ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội. Nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này nếu người phạm tội đã phạm vào các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng (tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015).

Do đó, người không tố giác tội phạm không phải là đồng phạm.

Lưu ý: người không tố giác tội phạm được xem là đồng phạm nếu người không tố giác tội phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội đó.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Không tố giác tội phạm có bị xem là đồng phạm hay không?

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

CÔNG TY LUẬT PT

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Xin trân trọng cảm ơn!

Không tố giác tội phạm có bị xem là đồng phạm hay không?

 

Đánh giá post

Bình luận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *