Danh mục: Luật sư Hình sự

  • Trường hợp nào chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo quy định pháp luật hiện hành năm 2022?

    Trường hợp nào chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo quy định pháp luật hiện hành năm 2022?

    Trường hợp nào chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo quy định pháp luật hiện hành năm 2022?

    Trong một số trường hợp, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại. Vậy, những trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại là gì?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1.      Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự:

    Khởi tố là giai đoạn đầu tiên trong tố tụng hình sự thể hiện qua quyết định khởi tố. Việc khởi tố vụ án hình sự chỉ được thực hiện khi có dấu hiệu của tội phạm.

    Căn cứ theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Căn cứ khởi tố vụ án hình sự:

    “Điều 143. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

    Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

    1. Tố giác của cá nhân;
    2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
    3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
    4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
    5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
    6. Người phạm tội tự thú.”

    Theo đó, pháp luật quy định chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ nêu trên.

     

    1. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

    Căn cứ theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như sau:

    “Điều 153. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

    1. Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
    2. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 của Bộ luật này.
    3. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:

    a) Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

    b) Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;

    c) Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

    4. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.”

    Theo đó, pháp luật quy định:

    – Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định.

    – Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

    “Điều 164. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

    1. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có nhiệm vụ, quyền hạn:

    a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;

    b) Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

    2. Trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan điều tra quy định tại Điều 163 của Bộ luật này, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

    3. Các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư, cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 39 và Điều 40 của Bộ luật này và thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt động điều tra do Bộ luật này quy định. Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này.

    4. Thẩm quyền điều tra cụ thể của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện theo quy định của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.”

    Bao gồm:

    Các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

    – Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:

    + Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

    + Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;

    + Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

    – Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

    chỉ được

    3.       Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

    Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi 2021) quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:

    “Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

    1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
    2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
    3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”.

    4.      Những trường hợp nào chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại?

    Trong một số trường hợp, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại. Cụ thể, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, sửa đổi 2021.

    Theo đó, chỉ được khởi tố vụ án hình sự tại khoản 1 các tội sau đây khi có yêu cầu của bị hại:

    – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;

    – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

    – Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    – Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;

    – Tội hiếp dâm;

    – Tội cưỡng dâm;

    – Tội làm nhục người khác;

    – Tội vu khống.

    Với các tội danh khác, chỉ cần có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án) hoàn toàn có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

    Ngoài ra, trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do: Bị ép buộc, cưỡng bức…

    Cụ thể:

     

     

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    Theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

    Hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    – Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    – Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    – Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    – Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    – Có tổ chức;

    – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    – Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    – Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    – Có tính chất côn đồ;

    – Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

    Theo khoản 1 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:

    Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó;

    Hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

    Theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm như sau:

    Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    Hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    Theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức của người khác như sau:

    Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính

    Theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính như sau:

    Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội hiếp dâm

    Theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về tội hiếp dâm như sau:

    Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cưỡng dâm

    Theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội cưỡng dâm như sau:

    Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội làm nhục người khác

    Theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội làm nhục người khác như sau:

    Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    • Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vu khống

    Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

    – Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

    – Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

    Như vậy, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chỉ được khởi tố nếu có yêu cầu của bị hại nếu thuộc các trường hợp theo quy định của pháp luật.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Khái niệm, dấu hiệu của tội phạm và cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào?

    Khái niệm, dấu hiệu của tội phạm và cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào?

    Khái niệm, dấu hiệu của tội phạm và cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Khái niệm Tội phạm:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Khái niệm tội phạm:

    “Điều 8. Khái niệm tội phạm

    1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
    2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

    Theo đó, pháp luật quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    Để xem xét một hành vi có được coi là tội phạm hay không thì căn cứ vào 4 yếu tố:

    –          Tính trái pháp luật hình sự,

    –          Tính nguy hiểm cho xã hội,

    –          Tính phải chịu hình phạt,

    –          Tính có lỗi.

    Trong đó dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng, quyết định các dấu hiệu khác.

     

    2.      Tính nguy hiểm cho xã hội:

    Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự.

    Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng nhất, quyết định những thuộc tính khác của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính có tính khách quan, tính xã hội, tính giai cấp và tính lịch sử.

    Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với tư cách là một thuộc tính xã hội của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Là chìa khóa để làm sáng tỏ bản chất xã hội và giai cấp của các chế định tội phạm và hình phạt, từ đó làm cơ sở cho việc xã hội hóa đấu tranh phòng, chống tội phạm.

    Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất, điều này đã được thể hiện qua các quy định của pháp luật:

    Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Khái niệm tội phạm đã khẳng định:

    1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,

    lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”

    Như vậy tính nguy hiểm chính là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định một tội phạm, nó được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội.

    Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Khái niệm tội phạm quy định:

    “2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

    Như vậy dấu hiệu tội phạm được coi là dấu hiệu tiên quyết, quyết định các dấu hiệu khác. Một hành vi có đủ 3 dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó là không đáng kế thì không bị coi là tội phạm.

    Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 của Điều 29 Bộ luật hình sự 2015 thì Tính nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể:

    “Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

    1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:

    a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

    b) Khi có quyết định đại xá.

    Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

    a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

    b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

    c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

    2. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ýgây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”

    Như vậy, chúng ta có thể thấy tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính phát sinh trong mối quan hệ giữa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm với xã hội và chỉ có thể nhận biết bằng tư duy.

     

    3.      Tính có lỗi:

    Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý, là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm.

    Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó.

    Nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 không phải chỉ đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó.

    Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là sự kết hợp của sự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

    • Phân loại lỗi:

    Để phân loại lỗi, chúng ta cần xác định một tiêu chí thống nhất cho việc phân loại. Căn cứ vào yếu tố ý chí và yếu tố lý trí mà lỗi được phân ra làm 2 loại là:

    • Lỗi cố ý;
    • Lỗi vô ý.

    Cũng trên cơ sở ý chí và lý trí của chủ thể vi phạm pháp luật mà khoa học pháp lý cũng phân biệt lỗi cố ý gồm 2 hình thức:

    • Lỗi cố ý trực tiếp;
    • Lỗi cố ý gián tiếp.

    Lỗi vô ý cũng có 2 hình thức:

    • Lỗi vô ý vì quá tự tin;
    • Lỗi vô ý do cẩu thả.
    • Lỗi cố ý

    – Lỗi cố ý trực tiếp:

    Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

    Ví dụ: A thấy B đi uống rượu rồi nảy sinh mâu thuẫn với C, A về nhà lấy dao ra quán tìm C và chém liên tiếp vào C dẫn đến C chết. Như vậy A nhận thấy rõ hành vi nguy hiểm và thấy trước hậu quả của mình.

    – Lỗi cố ý gián tiếp:

    Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm co xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

    Ví dụ: Ao cá nhà A hay bị trộm, A giăng bẫy điện để chống trộm. Chị B đi ra qua đó nhưng không biết nên vào ao nhà A để rửa chân tay và bị điện giật chết. Tuy A đã thấy trước hậu quả xảy ra, không mong muốn hậu quả nhưng vẫn có ý thức để mặc.

     

    • Lỗi vô ý

    – Lỗi vô ý vì quá tự tin:

    Lỗi vô ý vì quả tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

    Ví dụ: A vì quá tự tin với khả năng lái xe của mình nên khi thấy một người đang qua đường và một chiếc ô tô đi đằng trước khoảng cách rất hẹp không đủ cho xe máy đi qua. Nhưng vì tự tin nên A vẫn cố vượt lên trước dẫn tới hậu quả do lệch tay lái nên A đã đâm vào người qua đường. A thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng tin rằng không xảy ra.

    – Lỗi vô ý do cẩu thả:

    Người thực hiện hành vi phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm, hoặc phải thấy trước hậu quả nguy hiểm, có thể thấy trước hậu quả.

     

    • Căn cứ vào tính có lỗi cho thấy:

    Việc quy tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của người thực hiện hành vi đó thì không được chấp nhận theo Bộ luật Hình sự.

    Mục đích của áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ không phải trừng phạt hành vi.

    khái niệm

    4.      Tính trái pháp luật hình sự:

    Tính trái pháp luật hình sự cũng được thể hiện thông qua Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Khái niệm tội phạm.

    Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2. Cụ thể:

    Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Cơ sở của trách nhiệm hình sự:

    “Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
    2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”

    Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.

    Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trai pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.

     

    5.      Tính phải chịu hình phạt:

    Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình phạt.

    Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng hình phạt.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Căn cứ để tạm giữ hình sự là gì? Thời hạn tạm giữ bao lâu? 2022

    Căn cứ để tạm giữ hình sự là gì? Thời hạn tạm giữ bao lâu? 2022

    Căn cứ để tạm giữ hình sự là gì? Thời hạn tạm giữ bao lâu? Pháp luật hiện hành năm 2022 quy định như thế nào về vấn đề này?

    Tạm giữ hình sự là biện pháp ngăn chặn phổ biến được quy định cụ thể tại Bộ luật Hình sự 2015. Vậy, căn cứ nào để tạm giữ hình sự? Thời hạn tạm giữ hình sự là bao lâu?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    căn cứ

    1.      Thế nào là biện pháp ngăn chặn?

    Biện pháp ngăn chặn được hiểu là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng và được áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong các trường hợp như: Trường hợp khẩn cấp; trường hợp phạm tội quả tang… để nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm của họ trong xã hội, ngăn ngừa tội phạm xảy ra.

    2.      Thế nào là tạm giữ hình sự?

    Tạm giữ hình sự là biện pháp ngăn chặn được sử dụng tương đối phổ biến.

    Căn cứ theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về Tạm giữ:

    “Điều 117. Tạm giữ

    1. Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
    2. Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ.

    Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Quyết định tạm giữ phải giao cho người bị tạm giữ.

    1. Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
    2. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.”

    Theo đó thì tạm giữ là biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

    Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về Người bị tạm giữ:

    Điều 59. Người bị tạm giữ

    1. Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
    2. Người bị tạm giữ có quyền:

    a) Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

    b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

    c) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

    d) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

    đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

    e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

    g) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.

    3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật này và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

    Trong đó, Khoản 1 Điều này quy định người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.

    Cơ quan có thẩm quyền khi có căn cứ sẽ đưa ra quyết định tạm giữ, trong đó ghi rõ:

    – Họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ;

    – Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành quyết định;

    – Căn cứ ban hành quyết định;

    – Nội dung;

    – Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành quyết định và đóng dấu.

     

    3.      Quyền của người bị tạm giữ

    Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 quy định về Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam:

    “Điều 9. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam

    1. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có các quyền sau đây:

    a) Được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ;

    b) Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân;

    c) Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu;

    d) Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự;

    đ) Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;

    e) Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;

    g) Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam;

    h) Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;

    i) Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;

    k) Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam.

    2. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có các nghĩa vụ sau đây:

    a) Chấp hành quyết định, yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam;

    b) Chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.”

     

    Trong đó, Khoản 1 Điều này quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam có các quyền sau đây:

    • Được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm;
    • Được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ;
    • Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân;
    • Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu;
    • Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự;
    • Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;
    • Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;
    • Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam;
    • Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;
    • Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;
    • Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam.

    4.      Căn cứ để tạm giữ hình sự là gì?

    Căn cứ vào giải thích trên về tạm giữ hình sự, có thể hiểu việc tạm giữ hình sự được thực hiện dựa trên các căn cứ sau:

    – Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

    – Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang;

    – Người phạm tội tự thú, đầu thú;

    – Người bị bắt theo quyết định truy nã.

    Như vậy, căn cứ để tạm giữ người sẽ dựa trên quyết định truy nã hay trong trường hợp người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc trong trường hợp khẩn cấp.

    Trong trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.

    Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp đều phải tạm giữ, vì khi bắt khẩn cấp cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó bỏ trốn hoặc cản trở điều tra.

    Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra của người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

    Để từ đó có thể quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hay không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết.

     

    5.      Thời hạn tạm giữ hình sự là bao lâu?

    Căn cứ theo quy định tại Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về Thời hạn tạm giữ

    “Điều 118. Thời hạn tạm giữ

    1. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
    2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.

    Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

    1. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
    2. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.”

    Theo đó, thời hạn tạm giữ tối đa 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú. Trong đó:

    – Trường hợp cần thiết: Có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày.

    – Trường hợp đặc biệt: Có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.

    Lưu ý rằng, mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Việc ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn phải được đưua ra trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ.

    Ngoài ra, Điều 118 Bộ luật này cũng nêu rõ, thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

    Như vậy, tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn người thực hiện hành vi phạm tội khi người này có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiếp tục gây ra những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với những vụ án phức tạp cần phải gia hạn thời hạn tạm giữ  thì bên cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định gia hạn thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày.

    Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan tiến hành tố tụng có thể gia hạn thời hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 3 ngày. Như vậy, tính tổng thời gian tạm giữ tối đa là không quá 9 ngày.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Miễn chấp hành hình phạt tù theo quy định pháp luật hiện hành 2022 như thế nào?

    Miễn chấp hành hình phạt tù theo quy định pháp luật hiện hành 2022 như thế nào?

    Miễn chấp hành hình phạt tù theo quy định pháp luật hiện hành 2022 như thế nào?

    Anh Trần Văn Dương bị tòa án phạt 20 tháng tù về tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ. Sau khi gây án, anh Trần Văn Dương rất ăn năn, hối cải, khai báo thành khẩn.

    Trong khi chờ đi thụ hình đã có công cứu được 3 trẻ nhỏ bị nước lũ cuốn trôi. Như vậy, luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này, anh Trần Văn Dương có được được miễn chấp hành hình phạt tù không?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Miễn hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

    ·         Miễn chấp hành hình phạt là gì?

    Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại (chưa chấp hành) của mức hình phạt đã tuyên. Miễn chấp hành hình phạt khác với miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng.

    Miễn trách nhiệm hình sự được các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử khi có các tình tiết phù hợp với quy định của pháp luật.

    Miễn hình phạt được Toà án áp dụng trong giai đoạn xét xử; người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 92 Bộ luật Hình sự 2015). Miễn chấp hành hình phạt được áp dụng trong giai đoạn thi hành án hình sự khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật.

    Căn cứ theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Miễn hình phạt:

    “Điều 59. Miễn hình phạt

    Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.”

    Theo đó, pháp luật quy định người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Trong đó:

     

    1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng:

    “Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

    1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
    2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
    3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

    Theo đó, Khoản 1 Điều này quy định Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cụ thể:

     

    1. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    “Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

    e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

    g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

    l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

    m) Phạm tội do lạc hậu;

    n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

    p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

    q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    r) Người phạm tội tự thú;

    s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

    t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

    u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

    x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.”

    Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

    chấp hành

    4.      Điều kiện để được miễn chấp hành hình phạt:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 62 Bộ luật hình sự 2015 quy định về miễn chấp hành hình phạt như sau: Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

    Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt (Khoản 1 Điều 3 Luật đặc xá 2007).

    “Điều 3. Giải thích từ ngữ

    Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

    1. Đặc xálà sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.”

    Đại xá tuy chưa có văn bản điều chỉnh cụ thể nhưng có thể hiểu là sự khoan hồng của Nhà nước do Quốc hội quyết định nhằm tha tội hoàn toàn và triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước.

    Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Sau khi bị kết án đã lập công;

    Lập công là trường hợp người chấp hành án có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc xác nhận (Khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC)

    “2. Lập công là trường hợp người chấp hành án có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc xác nhận.

    b) Mắc bệnh hiểm nghèo;

    Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp người chấp hành án đang bị những căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao (Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC)

    c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

    Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội là trường hợp người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào thi đua của địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án (Khoản 6 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC)

    Ví dụ: Anh A bị kết án tù 20 tháng vì tội trộm cắp tài sản nhưng chưa thi hành án. Xét thấy hành vi trộm cắp của anh A là bộc phát, do hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn: mẹ già yếu, không còn khả năng lao động, vợ bị tâm thần, anh A là lao động chính trong gia đình nên trong trường hợp này, anh A có thể được miễn chấp hành hình phạt.

    Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.

    Lập công lớn là trường hợp người chấp hành án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận (Khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC)

    Ví dụ: Anh A bị phạt tù 04 năm vì tội cố ý gây thương tích nhưng chưa chấp hành hình phạt. Trong thời gian chờ thụ hình, anh A đã cứu sống 02 bé trai khỏi lũ cuốn. Trong trường hợp này, anh A có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt nhờ lập công lớn theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát.

    Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    Ví dụ: Anh A bị phạt 50 triệu đồng vì tội vu khống cho người khác. Anh A đã trả được 20 triệu, tuy nhiên, nhà anh đang hư hỏng nặng do lũ quét, ruộng và gia súc chết do ngập nước. Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của anh A đang bị thiệt hại nặng nề, chưa có khả năng khôi phục thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

     

    1. Kết luận:

    Đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, anh Dương đã có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ nhờ việc hối cải, khai báo thành khẩn và lập công chuộc tội thì có thể được xét miễn chấp hành hình phạt.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào?

    Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào?

    Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào?

    Chị Nguyễn Thị Hiền sống độc thân, do thiếu hiểu biết, chị đã cho một gái bán dâm ở trong nhà chị và thực hiện hành vi mua bán dâm với nhiều người trong nhiều lần khác nhau.

    Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này, chị Hiền có phạm tội gì không? Có phải là phạm tội nhiều lần không? Nếu phạm tội thì bị xử phạt như thế nào?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    mại dâm

    1. Định nghĩa mại dâm:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003:

    “Điều 3. Giải thích từ ngữ

    Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

    1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
    2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
    3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.
    4. Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
    5. Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
    6. Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm.
    7. Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
    8. Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.”

    Theo đó, Khoản 3 Điều này quy định mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm. Trong đó:

    – Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. (Theo Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003

    – Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. (Theo Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003).

    1. Hình thức xử phạt vi phạm:

    Hiện nay, người thực hiện hành vi mua dâm, bán dâm chỉ chịu các mức phạt hành chính theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Cụ thể:

    • Đối với hành vi mua dâm:

    “Điều 24. Hành vi mua dâm

    1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi mua dâm.
    2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trường hợp mua dâm từ 02 người trở lên cùng một lúc.
    3. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.”

    • Đối với hành vi bán dâm:

    “Điều 25. Hành vi bán dâm

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi bán dâm.
    2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho 02 người trở lên cùng một lúc.
    3. Hình thức xử phạt bổ sung:

    a) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;

    b) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.

    4. Biện pháp khắc phục hậu quả:

    Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.”

    Đối với cá nhân, tổ chức có hành vi chứa mại dâm nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chứa mại dâm được quy định tại Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Cụ thể:

    Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:

    “Điều 327. Tội chứa mại dâm

    1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Cưỡng bức mại dâm;

    c) Phạm tội 02 lần trở lên;

    d) Chứa mại dâm 04 người trở lên;

    đ) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;

    e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm từ 11% đến 45%;

    g) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    h) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

    a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm 46% trở lên.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Đối với 02 người trở lên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;

    c) Cưỡng bức mại dâm dẫn đến người đó chết hoặc tự sát.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    1. Tình tiết phạm tội nhiều lần:

    • Định nghĩa phạm tội nhiều lần:

    Phạm tội nhiều lần được hiểu là là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.

    Hay có thể được hiểu là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cầu thành một tội phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án…

    Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chi cấu thành một tội, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử…

    Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần bao gồm năm nội dung sau:

    – Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau

    Ví dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối đối với nhiều người, nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm….

    – Nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yêu tố cấu thành một tội phạm độc lập.

    – Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự (cùng là tội trộm cắp, hiếp dâm, chứa mại dâm…), có thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau của cùng một điều luật.

    – Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (như đình chi điều tra, đình chi vụ án…) và cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án).

    – Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.

    • Tình tiết phạm tội nhiều lần đối với người chứa mại dâm:

    Tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm thuộc một trong các trường hợp sau:

    – Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);

    – Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;

    – Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.

    1. Tội chứa mại dâm bị xử lý như thế nào?

    Tội chứa mại dâm được quy định tại Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với các khung hình phạt như sau:

    * Khung 1:

    Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    * Khung 2

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    –  Có tổ chức;

    –  Cưỡng bức mại dâm;

    – Phạm tội 02 lần trở lên;

    – Chứa mại dâm 04 người trở lên;

    – Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;

    -Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

    – Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    – Tái phạm nguy hiểm.

    * Khung 3

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

    – Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    – Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    – Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    * Khung 4

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    – Đối với 02 người trở lên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

    – Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;

    – Cưỡng bức mại dâm dẫn đến người đó chết hoặc tự sát.

    * Hình phạt bổ sung

    Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    1. Mức phạt hành chính đối với hành vi chứa mại dâm

    Cá nhân, tổ chức lợi dụng địa điểm kinh doanh, dịch vụ để làm nơi chứa mại dâm nhưng không đủ yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử lý hành chính với mức phạt như sau:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 27 Nghị định 144/2021/NĐ-CP về Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm:

    “Điều 27. Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm

    1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh.
    2. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người đứng đầu, người đại diện theo pháp luật, người được giao quản lý cơ sở kinh doanh, dịch vụ để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm, khiêu dâm, kích dục ở cơ sở do mình quản lý.
    3. Hình thức xử phạt bổ sung:

    a) Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;

    b) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.

    4. Biện pháp khắc phục hậu quả:

    Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này.”

    Theo đó, pháp luật quy định người có hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm có thể bị xử phạt hành chính lên đến 40.000.000 đồng và tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự từ 06 tháng đến 1 năm và phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm mà có.

    Ngoài ra những người tham gia thực hiện các hành vi mua dâm, bán dâm cũng phải chịu các mức phạt theo Điều 24 và Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    * Đối với hành vi mua dâm

    – Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi mua dâm.

    – Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trường hợp mua dâm từ 02 người trở lên cùng một lúc.

    – Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trên.

    * Đối với hành vi bán dâm

    – Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi bán dâm.

    – Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho 02 người trở lên cùng một lúc.

    – Hình thức xử phạt bổ sung:

    + Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm;

    + Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm.

    – Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.

    1. Kết luận:

    Trường hợp của chị Nguyễn Thị Hiền nêu trên vi phạm pháp luật theo quy định tại Điểm c, Khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội chứa mại dâm. Và có thể phải chịu hình phạt tù từ 05 đến 10 năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Tội giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như thế nào?

    Nguyễn Văn Việt do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng bọn đột nhập vào nhà bà Minh trộm cắp. Khi bị phát hiện Việt đã chủ động tấn công và đâm chết cháu trai của bà Minh khi anh này cố tình ngăn cản không cho Việt chạy thoát.

    Sau khi Việt bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố Việt về tội giết người thì gia đình Việt đã có đơn kiện, cho rằng do Việt còn nhỏ (mới hơn 14 tuổi), nhận thức kém, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Luật sư cho tôi hỏi, pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    tội giết người

    1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

    Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

    “Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:

    a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);

    b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

    c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

    d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

    đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

    e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).”

     

    1. Khái niệm giết người:

    Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng của con người. Tội giết người được quy định tại Điều 123, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

     

    1. Căn cứ pháp lý của Tội giết người:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về Tội giết người:

    “Điều 123. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết 02 người trở lên;

    b) Giết người dưới 16 tuổi;

    c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2.Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

    3.Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    4.Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”

    4.      Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội giết người:

    ·         Chủ thế của tội giết người

    Chủ thể của tội giết người là chủ thể thường. Nghĩa là bất kỳ người nào từ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thể của tội giết người.

    Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

     

    ·         Khách thể của tội giết người

    Quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Cuộc sống của mỗi người bắt đầu từ khi họ được sinh ra đến khi họ chết. Tội giết người trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người.

    Đối tượng tác động của tội giết người là thân thể con người đang sống. Hành vi của người phạm tội giết người đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người.

     

    ·         Mặt chủ quan của tội giết người

    Người phạm tội giết người luôn thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).

    Giết người với lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp một người nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức hậu quả chết người sẽ xảy ra và mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra.

    Giết người với lồi cố ý gián tiếp là trường hợp một người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

     

    ·         Mặt khách quan của tội giết người

    Mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền sống của người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội có thể hành động hoặc không hành động.

    Các phương tiện như súng, dao, gậy, tay chân, thuốc độc… Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác thường được thực hiện bằng các phương thức như bắn, chém, đâm, treo cổ, bóp cổ, đầu độc, đấm đá…

     

    ·         Hậu quả

    Hậu quả do hành vi của tội phạm giết người gây ra là làm người khác chết (tức là chấm dứt sự sống của người khác). Tuy nhiên chỉ cần hành vi mà người phạm tội đã thực hiện có mục đích làm chấm dứt sự sống của người khác (hay làm cho người khác chết) thì được coi là cấu thành tội giết người cho dù hậu quả chết người có xảy ra hay không.

    Một số trường hợp, việc dùng vũ lực không gây ra hậu quả trực tiếp làm nạn nhân chết mà chỉ có tác dụng đẩy nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và tử vong (như xô nạn nhân xuống sông và bỏ mặc cho đến chết hoặc đạp nạn nhân ra ngoài đường đang có nhiều xe ôtô chạy dẫn đến bị xe cán chết…) vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người nếu chứng minh được người thực hiện hành vi đó có mục đích giết người.

    Đây có thể xem là hậu quả gián tiếp.

     

    5.      Hình phạt đối với tội giết người:

    Như quy định trên, người thực hiện tội phạm giết người sẽ chịu hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình. Điều luật quy định 02 khung hình phạt chính, 01 khung hình phạt bổ sung và 01 khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội.

    –  Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết 02 người trở lên;

    b) Giết người dưới 16 tuổi;

    c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    – Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

    – Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    – Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

     

    1. Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích

    Trong Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS), tội giết người và tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người được quy định tại Điều 123 và Điều 134. Hai tội danh này có những điểm khác nhau như sau:

    – Mục đích của hành vi phạm tội:
    + Tội giết người: Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.
    + Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

    – Xác định mức độ, cường độ tấn công

    + Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây chết người.
    + Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập với cường độ tấn công nhẹ hơn.

    – Vị trí tác động trên cơ thể:

    + Tội giết người: Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng,…
    + Tối cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Thường là những vị trí không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân, v.v…

    – Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác.


    + Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy…cũng là yếu tố quan trọng nhằm phân biệt hai tội này.

    – Yếu tố lỗi:


    + Tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Trong trường hợp một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý trực tiếp.

    Trong trường hợp một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý gián tiếp.

    + Tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người: Người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra.

    Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    – Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích, người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Còn trường hợp phạm tội giết người chưa đạt là người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của họ.

    -Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội cố ý gây thương tích, nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội giết người.

    1. Kết luận:

    Căn cứ quy định ở trên, Việt bị truy tố tội giết người khi Việt đã hơn 14 tuổi, là đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra nên việc gia đình Việt có đơn kiện là hoàn toàn trái quy định của pháp luật.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Nghĩa vụ phải chịu TNHS đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 2022

    Nghĩa vụ phải chịu TNHS đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 2022

    Nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được pháp luật hiện hành năm 2022 quy định như thế nào?

    Anh Nguyễn Văn Hữu uống rượu say nên trên đường đi làm về đã gây ra tai nạn giao thông làm trọng thương một người đi bộ sang đường.

    Sau đó gia đình anh Hữu đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầy đủ các chi phí cho họ.

    Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này, anh Hữu có phải chịu trách nhiệm hình sự nữa không ?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

    Căn cứ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:

    Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

    1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

    a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

    c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Làm chết 02 người;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

    g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Làm chết 03 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

    c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

    4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.

    2. Khung hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

    Theo đó, Khoản 1 Điều này quy định người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    Khoản 2 Điều này quy định người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

    a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

    c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Làm chết 02 người;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

    g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

    vi phạm

    3.      Xử phạt người điều khiển xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ

    Theo Khoản 6, Khoản 7, Khoản 8 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ như sau:

    “6. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    c) Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở.

    7.Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    a) Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h;

    c) Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở.

    8. Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    d) Điều khiển xe thành nhóm từ 02 xe trở lên chạy quá tốc độ quy định;

    đ) Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn;

    e) Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở;

    g) Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ;

    h) Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy;

    i) Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người thi hành công vụ.”

    Ngoài ra, Khoản 10 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về hình phạt bổ sung đối với trường hợp người lái xe vi phạm về nồng độ cồn như sau:

    “10. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

    a) Thực hiện hành vi quy định tại điểm g khoản 2 Điều này bị tịch thu thiết bị phát tín hiệu ưu tiên lắp đặt, sử dụng trái quy định;

    b) Thực hiện hành vi quy định tại điểm b, điểm e, điểm i khoản 3; điểm e, điểm g, điểm h khoản 4; khoản 5 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng;

    c) Thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 6; điểm a, điểm b khoản 7; điểm a, điểm b, điểm c, điểm d khoản 8 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 02 tháng đến 04 tháng; tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần hành vi quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d khoản 8 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng, tịch thu phương tiện.

    Thực hiện hành vi quy định tại một trong các điểm, khoản sau của Điều này mà gây tai nạn giao thông thì bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 02 tháng đến 04 tháng: Điểm a, điểm g, điểm h, điểm k, điểm l, điểm m, điểm n, điểm q khoản 1; điểm b, điểm d, điểm e, điểm g, điểm l, điểm m khoản 2; điểm b, điểm c, điểm k, điểm m khoản 3; điểm đ, điểm e, điểm g, điểm h khoản 4 Điều này;

    d) Thực hiện hành vi quy định tại điểm b khoản 6; điểm đ khoản 8; khoản 9 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng;

    đ) Thực hiện hành vi quy định tại điểm c khoản 6 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 10 tháng đến 12 tháng;

    e) Thực hiện hành vi quy định tại điểm c khoản 7 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 16 tháng đến 18 tháng;

    g) Thực hiện hành vi quy định tại điểm e, điểm g, điểm h, điểm i khoản 8 Điều này bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng.”

    Như vậy, pháp luật quy định người đi xe máy uống rượu bia rồi lái xe tham gia giao thông:

    Trường hợp trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 10 tháng đến 12 tháng.

    Trường hợp trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở bị phạt từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 16 tháng đến 18 tháng.

    Trường hợp trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở bị phạt từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng.

    1. Kết luận:

    Đối chiếu với quy định nêu trên, việc của bạn khi gây tai nạn trong tình trạng say bia rượu và có nồng độ cồn vượt phép quy định gây ra tai nạn. Mặc dù bạn đã bồi thường thiệt hại về vật chất nhưng theo quy định của pháp luật, nhưng bạn vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra. Việc bạn đã chủ động bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân sẽ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt khi vụ án được đưa ra xét xử.

    Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sau đây:

    “1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

    e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

    g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

    l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

    m) Phạm tội do lạc hậu;

    n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

    p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

    q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    r) Người phạm tội tự thú;

    s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

    t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

    u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

    x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

    2.Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

    3.Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp phạm tội buôn bán ma túy 2022

    Hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp phạm tội buôn bán ma túy 2022

    Quy định của pháp luật hiện hành 2022 về Hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp phạm tội buôn bán ma túy như thế nào?

    An phạm tội buôn bán ma túy. Trong quá trình điều tra, truy tố xét xử, cơ quan có thẩm quyền phát hiện An đang có thai.

    Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này An có được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    hoãn chấp hành hình phạt tù

    1. Căn cứ pháp lý:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội mua bán trái phép chất ma túy:

    “Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

    1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
    2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội 02 lần trở lên;

    c) Mua bán với 02 người trở lên;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

    h) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

    i) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

    n) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

    o) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm n khoản này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng 100 gam trở lên;

    c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng 75 kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Theo đó, pháp luật quy định mua bán trái phép chất ma túy là việc một người thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc:

    Bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác.

    Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

    Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

    Dùng chất ma túy nhằm trao đổi, thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy).

    Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác.

    Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

    Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

    Ví dụ: Bà A là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Liên hệ mua của ông B 500gam ma túy. Với mục đích về sẽ bán lại cho các con nghiện khác với giá cao hơn để lấy lời. Lúc này bà A đã có đầy đủ các dấu hiệu để thỏa mãn cấu thành tội phạm về tội mua bán trái phép chất ma túy theo điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    1. Các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy:

    Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy.

    Cũng giống như các tội hình sự khác, chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là người có độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

    Người từ 14 đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 của Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, vì đây là trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

    Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy.

    Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy.

    Do ma túy đồng thời là một chất được sử dụng trong y học, và trong có công dụng trong các nghiên cứu khác, nhưng việc sử dụng trái phép chất ma túy lại gây ra rất nhiều tác hại cho cộng đồng, cho nên Nhà nước rất coi trọng công tác quản lý chất ma túy.

    Đối tượng tác động của tội này là các chất ma túy, các chất ma túy thường gặp là thuốc phiện, cần sa, heroin, mooc phin và phổ biến hơn tại thời điểm hiện tại là các loại ma túy tổng hợp, ma túy đá, hoặc các loại ma túy dưới dạng thuốc tân dược khác…

    Mặt khách quan của tội phạm.

    Về hành vi: Hành vi mua bán trái phép là khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:

    + Bán ma túy: Là việc một người bán lại ma túy mà người đó có được từ các hình như là tự sản xuất, mua lại của người khác, được người khác cho hoặc nhặt được… để thu lợi.

    + Mua lại ma túy để bán: Đối với trường hợp này, cần xác định rõ mục đích của người phạm tội là mua chất ma túy đó là để bán lại cho người khác để thu lợi thì mới truy cứu trách nhiệm về tội mua bán trái phép chất ma túy. Giả sử A mua ma túy của B để bán lại cho C thì A sẽ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

    + Vận chuyển ma túy để bán cho người khác: Đây là hành vi người phạm tội không những vận chuyển ma túy trái phép mà còn bán lại chất ma túy mà mình vận chuyển cho người khác. Và mục đích của việc vận chuyển trái phép ở đây là để bán lại kiếm lời.

    Tức là có hai trường hợp xảy ra, trường hợp vận chuyển chất ma túy để bán thì là phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, còn nếu hành vi vận chuyển nhưng không phải để bán thì sẽ bị truy cứu về một tội khác theo quy định của bộ luật hình sự.

    + Tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái phép: Đây là hành vi cất giữ trái phép chất ma túy rồi sau đó đem bán lại ma túy đó cho người khác, tức là nếu người này đem bán chất ma túy mà mình tàng trữ hoặc có chứng cứ chứng minh người phạm tội có mục đích bán trái phép chất ma túy này thì người này vẫn bị truy cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy.

    + Dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa khác hoặc ngược lại dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy: Trên thực tế, tội phạm về ma túy cũng có thể dùng ma túy như một loại hàng hóa để trao đổi lấy một loại tài sản khác không phải là tiền hoặc ngược lại.

    Chẳng hạn như, A sử dụng 3kg ma túy để đổi lấy một khẩu súng lục của B, sau khi vừa thực hiện trao đổi thì bị bắt, cả A và B đều phạm tội buôn bán ma túy.

    Về mục đích: Kiếm lợi bất chính dựa trên hoạt động mua bán ma túy.

    Về hậu quả: Việc tội phạm thực hiện việc mua bán ma túy thành công hay không không phải là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội này, do đối tượng mà tội mua bán ma túy xâm phạm là công tác quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy, chất gây nghiện,… cho nên người này chỉ cần có hành vi thì đã có thể bị truy tố về tội buôn bán ma túy.

    Thêm vào đó, số lượng ma túy buôn bán cũng được coi là hậu quả của tội này và là một trong những yếu tố để định khung hình phạt, số lượng càng lớn, mức phạt càng cao.

    Mặt chủ quan của tội phạm.

    Lỗi của tội phạm trong hoạt động mua bán trái phép chất ma túy ở đây là lỗi cố ý, và cụ thể là lỗi cố ý trực tiếp. Người này biết rõ thứ mình mua bán là ma túy, biết rõ việc mua bán ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện việc mua bán ma túy để kiếm lời.

    hình phạt ma túy

    1. Liên hệ tình huống:

    Căn cứ theo Điều 67 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Hoãn chấp hành hình phạt tù:

    “Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù

    1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

    a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

    b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

    c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

    d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

    2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.”

    Theo đó, pháp luật quy định người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong trường hợp là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

    Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cụ thể Điều 56 quy định như sau:

    “Điều 56. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

    1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

    Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

    1. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
    2. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
    3. Kết luận:

    Đối chiếu với quy định nêu trên, An sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi đứa con được 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, trường hợp trong thời gian được hoãn, An lại tiếp tục phạm tội thì An sẽ bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt trước đó theo quy định nêu trên.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Pháp luật hiện hành 2022 quy định như thế nào về Tội cướp giật tài sản?

    Pháp luật hiện hành 2022 quy định như thế nào về Tội cướp giật tài sản?

    Pháp luật hiện hành 2022 quy định như thế nào về Tội cướp giật tài sản?

    Chị Phương đang đi xe máy trên đường thì xe hỏng. Đang loay hoay khởi động lại xe thì thấy anh Sơn (31 tuổi) đi qua. Chị Phương nhờ anh Sơn sửa xe hộ. Sau một hồi sửa thì anh Sơn ngồi lên yên, khởi động xe và phóng đi mất.

    Chị Phương hô hoán mọi người giữ lại nhưng không được. Sau đó, anh Sơn đã đem xe máy đó đi bán với giá 12.000.000 đồng và sử dụng số tiền đó để chơi game.

    Luật sư cho tôi hỏi, hành vi của anh Sơn cấu thành tội gì? Pháp luật quy định như thế nào về tội đó?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    tội cướp giật theo quy định của pháp luật

    Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 hiện nay chỉ mới quy định về tội danh cướp giật tài sản mà không mô tả cụ thể hành vi cướp giật tài sản cũng như dấu hiệu nhận biết hành vi này.

    Tuy nhiên, căn cứ theo lý luận và thực tiễn điều tra, xét xử về tội phạm này, có thể hiểu cướp giật tài sản là hành vi mang những đặc điểm, dấu hiệu sau:

    – Nhanh chóng, công khai giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc trong khi người có trách nhiệm đang quản lý tài sản;

    – Nhanh chóng tẩu thoát sau khi đã giật được tài sản.

    1. Căn cứ pháp lý của Tội cướp giật tài sản theo quy định pháp luật:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội cướp giật tài sản:

    “Điều 171. Tội cướp giật tài sản

    1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

    g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

    h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    i) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

    c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

    c) Làm chết người;

    d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

    2. Các yếu tố cấu thành Tội cướp giật tài sản:

    • Mặt khách quan: 

    Mặt khách quan của tội này thể hiện qua dấu hiệu sau:

    – Có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng. Được hiểu là người phạm tội không cần che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hiện trước mặt mọi người một cách táo bạo bất ngờ và dứt khoát trong một thời gian rất ngắn.

    – Để thực hiện được hành vi này người phạm tội không sử dụng vũ lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại té để cướp), cũng không đe dọa sử dụng vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người bị hại như trong tội cướp tài sản mà chỉ dựa vào sự nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại không đủ khả năng bảo vệ tài sản (chẳng hạn như trẻ em, người già, phụ nữ…) để giật lấy tài sản của họ và tẩu thoát.

    – Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là được thực hiện một cách bất ngờ và nhanh chóng (trong một khoản thời gian rất ngắn, thường chỉ trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt) làm cho người bị hại không kịp ứng phó.

    Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi của người bị hại. Thông thường thì người phạm tội có sử dụng phương tiện để thực hiện tội phạm (như dùng xe phân khối lớn để cướp giật…)

    • Lưu ý:

    + Đối tượng của hành vi cướp giật tài sản (tương tự như đối tượng của tội cướp tài sản). Tuy nhiên thông thường là nữ trang, tiền và các giấy tờ có giá trị như tiền, là những vật nhẹ, gọn, dễ lấy và cất giấu một cách dễ dàng.

    + Nhiều trường hợp người phạm tội cũng sử dụng thủ đoạn tinh vi để tạo sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản để thực hiện hành vi cướp giật.

    Ví dụ: giả vờ hỏi mua điện thoại di động, khi được chủ tài sản đưa cho xem đã nhanh chóng tẩu thoát cầm theo chiếc điện thoại.

    + Trường hợp người bị hại giữ, giằng, giật lại tài sản khi bị cướp giật tài sản của mình, thì ngay lúc đó người có hành vi cướp giật sử dụng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản đó. Trường hợp này là sự chuyển hoá tội phạm, từ tội cướp giật tài sản sang tội cướp tài sản.

    + Tính chất công khai ở tội này cũng là công khai về hành vi đối với người bị hại, người phạm tội có thể giấu mặt, lợi dụng ban đêm khi thực hiện hành vi cướp giật. Việc giấu mặt đó không ảnh hưởng đến tính công khai của hành vi cướp giật.

    + Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản. Nếu không cướp giật được tài sản mà không phải do tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình phạt.

    • Khách thể:

    Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

    • Mặt chủ quan:

    Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

    • Chủ thể:

    Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

    • Hậu quả:

    Hậu quả của tội cướp giật tài sản là gây thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn gây ra một số thiệt hại khác như thiệt hại về tính mạng, thiệt hại về sức khỏe hoặc những thiệt hại khác.

    Mặc dù điều luật không quy định rõ nhưng về mặt lý luận thì tội cướp giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất vì vậy chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới được coi là hoàn thành. Nếu chỉ có hành vi giật mà chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp là phạm tội chưa đạt.

    1. Khung hình phạt:

    Mức hình phạt đối với tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

    – Khung một (khoản 1)

    Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nếu ở mặt khách quan.

    – Khung hai (khoản 2)

    Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

    + Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

    + Có tính chất chuyên nghiệp (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

    + Dùng thủ đoạn nguy hiểm. Được hiểu là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản rất táo bạo, có thể gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng của chủ sở hữu tài sản, hoặc người quản lý tài sản như cướp giật tài sản của người đang đi xe gắn máy trên đường phố rồi đạp người bị hại ngã để tẩu thoát.

    + Hành hung để tẩu thoát. Được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng vũ lực (như đấm, đá, dùng gậy đánh…) chống trả lại việc đuổi bắt nhằm mục đích tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của người bị hại hoặc những người khác.

    + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

    + Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

    – Khung ba (khoản 3)

    Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

    + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    + Gây hậu quả rất nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

     Khung bốn (khoản 4)

    Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

    + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

    + Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

    – Hình phạt bổ sung (khoản 5)

    Ngoài việc chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng)

    1. Phân tích tình huống:

    Theo đó, hành vi của anh Sơn cấu thành tội cướp giật tài sản. Bởi vì:

    Thứ nhất, anh Sơn đã có hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của chị Phương, cụ thể là hành vi: sau một hồi sửa chữa anh Sơn ngồi lên yên, khởi động xe và phóng đi mất. Anh Sơn lợi dụng sơ hở của chị Phương là tin tưởng anh Sơn sẽ giúp mình sửa xe nên chị không đề phòng. Lúc anh Sơn chiếm mất xe do quá bất ngờ nên chị Phương không giữ lại được chiếc xe mặc dù chị có khả năng giữ lại. Chị Phương hô hào nhờ người dân giúp đỡ nhưng không kịp.

    Thứ hai, khi chiếm được chiếc xe của chị Phương, anh Sơn đã có hành vi nhanh chóng tẩu thoát và tẩu tán tài sản. Thể hiện ở hành vi anh Sơn khởi động xe và phóng đi, ngay sau đó mang đi tiêu thụ, bán với giá 12.000.000 đồng và sử dụng số tiền đó để chơi game.

    Cả hai hành vi công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát đều là hành vi về mặt khách quan của tội cướp giật tài sản.

    Về mặt chủ quan, lỗi của anh Sơn là lỗi cố ý trực tiếp.

    Về mặt chủ thể, anh Sơn là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

    Như vậy, hành vi của anh Sơn cấu thành tội Cướp đoạt tài sản và được quy định cụ thể tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    Hành vi của anh Sơn không phải là cưỡng đoạt tài sản hay cướp tài sản vì anh Sơn không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay dùng các thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chị Phương…Hành vi của anh Sơn công khai, không lén lút nên không thể là tội trộm cắp tài sản.

    Hành vi của anh Sơn cũng không phải là hành vi của tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bởi anh Sơn không dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của chị Phương và nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải hành vi chiếm đoạt tài sản.

    Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Trong trường hợp này, việc chị Phương bất ngờ hỏng xe giữa đường và nhờ anh Sơn sửa là hoàn toàn ngẫu nhiên, nên anh Sơn không thể có mục đích lừa dối chị Phương từ trước.

    Anh Sơn không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì công nhiên chiếm đoạt tài sản là công khai chiếm đoạt tài sản, lợi dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, ở đây thì chị Phương vẫn có điều kiện ngăn cản hành vi phạm tội của anh Sơn.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về pháp luật Hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Tội cướp tài sản được quy định như thế nào theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017?

    Tội cướp tài sản được quy định như thế nào theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017?

    Tội cướp tài sản được quy định như thế nào theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017?

    Lợi dụng lúc gia đình anh Bình ngủ trưa không đóng cửa, An (17 tuổi) lẻn và nhà anh Bình lấy chiếc xe đạp mini Nhật (trị giá khoảng hai triệu đồng). An dắt xe ra đến sân thì bị anh Bình phát hiện và đuổi theo giằng lại, An dùng chân đạp mạnh vào người anh Bình làm anh ngã ra sân.

    An vội lên xe và đạp ra ngoài đường để tẩu thoát nhưng đã bị mọi người bắt giữ. Anh Bình ngã chỉ bị xây xước.

    Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này An có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội gì và mức hình phạt là bao nhiêu?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    cướp tài sản

    1. Căn cứ pháp lý:

    Trong trường hợp nêu trên, An sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    Điều 168. Tội cướp tài sản

    1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

    g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    h) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

    c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

    c) Làm chết người;

    d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

    5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Tội cướp tài sản được hiểu là dùng vũ lực hoặc đe doa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.

    1. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản:

    • Khách thể:

    Xâm phạm đến quyền sở hữu, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của người khác. Như vậy, tội Cướp tài sản xâm phạm đồng thời quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu.

    • Mặt khách quan :

    Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản:

    + Hành vi dùng vũ lực;

    + Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc;

    + Hành vi làm cho người khác lâm vào tình trạng không thể chống cự được.

    Cả ba hành vi trên đều có mục đích  nhằm chiếm đoạt tài sản.

    • Chủ thể:

    Chủ thể của tội cướp tài sản là người từ đủ 14 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Ở đây, An 17 tuổi, đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này.

    • Mặt chủ quan của tội pham:

    + Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý.

    + Mục đích của tội cướp tài sản là chiếm đoạt tài sản.

    1. Phân tích tình huống:

    Mặc dù ý định ban đầu của An là trộm cắp nhưng từ lúc An dắt xe ra bị anh Bình phát hiện và giữ lại, An dùng chân đạp mạnh vào người anh Bình, làm anh Bình ngã, An lên xe và đạp ra ngoài đường để tẩu thoát thì hành vi này cấu thành tội cướp tài sản. Hành vi đạp mạnh vào người anh Bình làm cho anh Bình ngã để tẩu thoát bằng tài sản trộm cắp là hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản.

    Hành vi của An không phải hành vi dùng vũ lực, dùng sức mạnh chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát mà nhằm mục đích giữ bằng được tài sản vừa mới chiếm đoạt được và tẩu thoát. Mục đích của An không chỉ đơn thuần là tẩu thoát mà còn là chiếm đoạt.

    Vì vậy, An chiếm đoạt được chiếc xe đạp bằng hành vi trộm cắp nhưng ngay sau đó đã bị phát hiện và An đã tấn công lại anh Bình bằng những thủ đoạn của tội cướp tài sản nhằm giữ bằng được chiếc xe đạp đã chiếm đoạt trước đó thì bị truy cứu trách nhiệm về tội cướp tài sản.

    Như vậy, An sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với tội danh cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, chứ không phải tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    1. Khung hình phạt đối với Tội cướp tài sản:

    Mức hình phạt của tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

    • Khung một:

    Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.

    • Khung 2:

    Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đôi với một trong các trường hợp phạm tội sau:

    + Có tổ chức. Được hiểu là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm) cùng thực hiện tội phạm này.

    + Có tính chất chuyên nghiệp. Được hiểu là trường hợp người phạm tội thực hiện tội cướp tài sản một cách thường xuyên, như là một công việc là nguồn sống chính.

    Thông thường người phạm tội phải là không có nghề nghiệp, hoặc có nghề nghiệp nhưng thu nhập từ hoạt động cướp tài sản mới là nguồn thu nhập chính để sinh sống.

    + Tái phạm nguy hiểm. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

    + Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

    + Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.

    + Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác.

    Cần lưu ý:

    Thủ đoạn nguy hiểm khác là những thủ đoạn có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân (như tung ớt cho nạn nhân cay mắt, rải đinh làm cho xì hơi ở bánh xe của nạn nhân…)

    + Gây thương tích (như đánh gẫy chân, tay của nạn nhân..) hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân (như bị đánh, bị uống thuốc mê tuy không có thương tích nhưng sức khoẻ bị xấu đi và giảm sút) với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

    + Gây hậu quả nghiêm trọng: Được hiểu là những hậu quả gián tiếp mà nguyên nhân phát sinh từ hành vi cướp tài sản.

    • Khung ba

    Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

    + Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    + Gây hậu quả rất nghiêm trọng (giống như hậu quả nghiêm trọng nhưng tính chất, mức độ lớn hơn, nghiêm trọng hơn. Ví dụ: Do việc bị cướp toàn bộ sô’ tiền vay được ở ngân hàng để đầu tư sản xuất, một doanh nghiệp Nhà nước bị đình trệ sản xuất nhiều tháng hoặc bị phá sản…)

    • Khung bốn

    Có mức phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Được áp dụng đối vối một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

    + Gây thương tích hoặc gây tổn thương cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.

    + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

    + Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    • Hình phạt bổ sung

    Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị:

    + Phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

    + Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    + Phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    1. Một số vấn đề cần chú ý đối với tội cướp tài sản

    Khi thực hiện tội cướp tài sản, người phạm tội phát sinh ý thức chiếm đoạt trước khi có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được.

    Nếu ý thức chiếm đoạt phát sinh sau khi đã thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc các hành vi khác thì không phạm vào tội cướp tài sản, mà tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà phạm vào các tội tương ứng với hành vi đó (thường là tội công nhiên chiếm đoạt tài sản).

    Việc chuyên hoá tội phạm khác sang tội cướp tài sản khi người phạm tội đã chiếm giữ được tài sản thì bị chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản giằng, giật lại tài sản, khi đó, người phạm tội đã sử dụng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để bảo vệ tài sản đã chiếm đoạt được từ việc thực hiện một tội phạm khác.

    Nếu người phạm tội, phạm vào một tội khác thì bị chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm giằng giật lại tài sản, liền sau đó đã sử dụng vũ lực. đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm tẩu thoát thì không phạm vào tội cướp tài sản, vì lúc đó không có mục đích tiếp tục chiếm đoạt tài sản.

    Trường hợp này không có sự chuyển hoá từ tội phạm khác sang tội cướp tài sản. Hành vi trên được coi là hành hung để tẩu thoát đối với việc phạm tội trước đó (trường hợp này chỉ có ý nghĩa trong việc định khung tăng nặng, trong việc quyết định hình phạt).

    Nếu tài sản bị cướp lại là đối tượng của một tội phạm khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng, như tội chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 194 Bộ luật Hình sự); Tội chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý (Điều 195 Bộ luật Hình sự); Tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng phương tiện kỹ thuật (Điều 232 Bộ luật Hình sự); tội chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 236 Bộ luật Hình sự).

    Trong trường hợp người phạm tội ngoài việc chiếm đoạt tài sản còn gây thương tích cho người khác dưới 11% kèm theo các tình tiết quy định ở khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự, thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

    Nếu gây thương tích từ 11% trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với các khung nặng của tội cướp tài sản (khoản 2,3,4 Điều 133 Bộ luật Hình sự). Trường hợp cướp tài sản mà gián tiếp làm chết người thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật Hình sự.

    Phân biệt hành vi cướp tài sản mà làm chết người với hành vi giết người để cướp tài sản. Hành vi cướp tài sản mà làm chết người là trương hợp người phạm tội không trực tiếp giết người bị hại, cái chết của người bị hại không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với hành vi dùng vũ lực để cướp tài sản.

    Tuy nhiên hành vi bạo lực đó có vai trò quyết định đến cái chết của người bị hại. Ngược lại hành vi giết người để cướp tài sản thì cái chết của người bị hại phải là hậu quả trực tiếp của hành vi sử dụng vũ lực do người phạm tội gây ra (đúng với mục đích của người phạm tội).

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về pháp luật Hình sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120