Tác giả: dovankieu

  • Hợp đồng thuê nhà ở và một số tình huống liên quan (Phần 1)

    Hợp đồng thuê nhà ở và một số tình huống liên quan (Phần 1)

    Hợp đồng thuê nhà ở là một dạng cụ thể của hợp đồng thuê tài sản, là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê và bên thuê. Theo đó bên cho thuê có nghĩa vụ giao nhà ở cho bên thuê, bên thuê có nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Luật Nhà ở 2014

    2. Tình huống 1

    hợp đồng thuê nhà ởTôi và chị X có ký hợp đồng cho thuê nhà, thời hạn thuê từ 12/2021 đến hết tháng 12/2022, thanh toán tiền trọ vào đầu tháng. Tuy nhiên, từ tháng 7/2022, tôi không liên hệ được với chị X và chị cũng chưa thanh toán tiền cho tôi tiền nhà tháng 7, 8, 9. Giờ tôi muốn chấm dứt hợp đồng với chị X và cho người khác thuê được không?

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Điều 132 Luật Nhà ở 2014 quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thực hiện thuê nhà ở như sau:

    1. Trong thời hạn thuê nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên cho thuê không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của Luật này;

    b) Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;

    c) Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích như đã thoả thuận trong hợp đồng;

    d) Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;

    đ) Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê;

    e) Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục;

    g) Thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 129 của Luật này.

    3. Bên thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở khi bên cho thuê nhà ở có một trong các hành vi sau đây:

    a) Không sửa chữa nhà ở khi có hư hỏng nặng;

    b) Tăng giá thuê nhà ở bất hợp lý hoặc tăng giá thuê mà không thông báo cho bên thuê nhà ở biết trước theo thoả thuận;

    c) Khi quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.

    4. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác; nếu vi phạm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    Bạn và chị X đã thỏa thuận trong hợp đồng là phải thanh toán tiền thuê nhà vào đầu mỗi tháng nhưng chị X đã không thanh toán tiền nhà 3 tháng 7, 8, 9 mà không có lý do chính đáng nên bạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 132 Luật Nhà ở 2014.

    Ngoài ra, bạn cần chú ý thông báo cho chị X biết về việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước ít nhất 30 ngày theo quy định tại khoản 4 Điều này, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    3. Tình huống 2 

    Chào luật sư! 15/8 vừa rồi tôi có đặt cọc 8 triệu để thuê 1 căn nhà ở Hà Nội nhưng chưa lập hợp đồng đặt cọc, hôm đó chủ nhà nói có thể ở tối đa 5 người.. Đến hôm sau, chủ nhà liên hệ với tôi để trao đổi về hợp đồng thuê nhà thì chỉ cho tối đa 3 người ở, 2 bên không thoả thuận được hợp đồng. Trong trường hợp này tôi có lấy lại cọc được không?
    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Đặt cọc như sau:
    – Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
    – Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền:

    + Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc

    + Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    Có thể thấy, luật không quy định về hình thức của hợp đồng đặt cọc. Bên cạnh đó, căn cứ Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể”.

    Với trường hợp của bạn, dù hai bên không có văn bản thỏa thuận nhưng hai bên có thoả thuận đặt cọc và bạn đã chuyển tiền cọc cho chủ nhà thì giao dịch đặt cọc này vẫn có giá trị pháp lý.

    Căn cứ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật dân sự 2015:

    nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

    Bạn có quyền yêu cầu bên cho thuê nhà thực hiện đúng theo thoả thuận đặt cọc trước đó. Nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định của khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự nêu trên.

    Nếu chủ nhà từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì bạn có quyền yêu cầu chủ nhà hoàn trả lại tiền cọc cho bạn. Trường hợp, chủ nhà không đồng ý trả cọc thì bạn có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền với thủ tục như sau:

    • Chuẩn bị hồ sơ: Đơn khởi kiện, hợp đồng thuê nhà, hợp đồng đặt cọc thuê nhà hoặc bất cứ giấy tờ, tài liệu nào liên quan đến việc cho thuê nhà và đặt cọc cho thuê nhà (nếu có); giấy tờ nhân thân của người thuê, người cho thuê…
    • Nơi nộp hồ sơ: Toà án nhân dân cấp huyện nơi người bị kiện cư trú, làm việc thông qua việc nộp trực tiếp, gửi qua đường bưu điện hoặc gửi online qua Cổng thông tin điện tử của Toà án (nếu có).
    • Toà án giải quyết: Thông thường thời gian này sẽ từ 02 – 06 tháng tuỳ vào mức độ phức tạp của từng vụ án. Trong thời gian này, Toà án sẽ chuẩn bị xét xử và mở phiên toà xét xử giải quyết tranh chấp của các bên.

    4. Tình huống 3

    Chị A cho anh B thuê nhà nguyên căn có diện tích 70m2,  từ ngày 10/8/2017 ( gồm căn nhà 30m2 và sân vườn phía trước 40m2) thời hạn 1 năm (B có đặt tiền thế chân là 1 tháng tiền nhà, hợp đồng có công chứng).

    Được sự đồng ý của A, ngày 17/8/2017 B tự tu sửa chữa nhà cho khang trang hơn bằng tiền của mình khoảng 3 triệu đồng.

    Thuê được 2 tháng, đến ngày 10/10/2017  chị A báo cho B biết sẽ bán nhà cho bà C. Sau  khi bà C trở thành chủ sở hữu mới đã thông báo với B là sẽ xây phần diện tích trước nhà làm nhà trọ khoảng 30m2, phần diện tích còn lại là lối đi vào nhà anh B, đồng thời bà C sẽ tăng giá cho thuê.

    Ông B bức xúc cho rằng hợp đồng thuê nhà vẫn còn đến 10 tháng nữa, bà C không có quyền phá vỡ hợp đồng cho thuê mặc dù đã đổi chủ sở hữu, việc cắt thêm nhà trọ và tăng giá tiền thuê là không đúng pháp luật. Tuy nhiên bà C không đồng ý.   

    Thứ nhất, ngày 10/10/2017 chị A báo cho anh B là bán căn nhà cho bà C và anh B đã biết và không có ý kiến gì về việc chị A bán căn nhà và không ý định chuyển đi khi chủ nhà mới là C.

    Điều 127. Mua bán nhà ở đang cho thuê
    1. Trường hợp chủ sở hữu bán nhà ở đang cho thuê thì phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê nhà ở biết về việc bán và các điều kiện bán nhà ở; bên thuê nhà ở được quyền ưu tiên mua nếu đã thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà cho bên cho thuê tính đến thời điểm bên cho thuê có thông báo về việc bán nhà cho thuê,

    trừ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung; trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bên thuê nhà ở nhận được thông báo mà không mua thì chủ sở hữu nhà ở được quyền bán nhà ở đó cho người khác, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác về thời hạn.2. Trường hợp bán nhà ở đang cho thuê thuộc sở hữu nhà nước thì thực hiện theo quy định tại Mục 2 Chương VI của Luật này.

    Nếu chị A đã thông báo bằng văn bản cho bên B biết về việc bán và các điều kiện bán nhà ở thì chị A đã tuân thủ các quy định về mua bán nhà ở đang cho thuê.

    Thứ hai, bà C thông báo với B sẽ xây phần diện tích nhà làm trọ khoảng 30 m2 và bà C sẽ tăng giá thuê nhà.

    “Điều 133. Quyền tiếp tục thuê nhà ở
    1. Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chết mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng. Người thừa kế có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    Trường hợp chủ sở hữu không có người thừa kế hợp pháp theo quy định của pháp luật thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và người đang thuê nhà ở được tiếp tục thuê theo quy định về quản lý, sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.

    2. Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chuyển quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê cho người khác mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng; chủ sở hữu nhà ở mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    3. Khi bên thuê nhà ở chết mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì người đang cùng sinh sống với bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng thuê nhà ở, trừ trường hợp thuê nhà ở công vụ hoặc các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

    Việc tranh chấp xảy ra giữa B và C là tranh chấp về hợp đồng thuê nhà. B cho rằng bà C không được tăng giá nhà mà phải tuân thủ theo đúng hợp đồng đã kí kết trước đó với chị A là hợp lý.  Bà C phải tuân thủ theo đúng hợp đồng thuê nhà đã kí kết giữa chị A và anh B.

    Bởi lẽ, theo khoản 2 Điều 133 Luật này quy định:

    Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chuyển quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê cho người khác mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng; chủ sở hữu nhà ở mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.”

    5. Tình huống 4

    Gửi Luật sư, tôi hiện nay đã có một hợp đồng thuê nhà ở 5 năm. Hiện nay, mới được 3 năm nhưng tôi đã có đủ tiền để mua đất, xây nhà nên tôi muốn chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Việc tôi chấm dứt hợp đồng như vậy có được không, bởi vì trong hợp đồng của tôi không có đề cập đến vấn đề này. Cảm ơn Luật sư.

    Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật PT. Nội dung câu hỏi của bạn Chúng tôi xin tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Điều 131, Luật nhà ở đã quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở như sau:

    1. Trường hợp thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước thì việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà được thực hiện khi có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 84 của Luật này.

    2. Trường hợp thuê nhà ở không thuộc sở hữu nhà nước thì việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở được thực hiện khi có một trong các trường hợp sau đây:

    a) Hợp đồng thuê nhà ở hết hạn; trường hợp trong hợp đồng không xác định thời hạn thì hợp đồng chấm dứt sau 90 ngày, kể từ ngày bên cho thuê nhà ở thông báo cho bên thuê nhà ở biết việc chấm dứt hợp đồng;

    b) Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng;

    c) Nhà ở cho thuê không còn;

    d) Bên thuê nhà ở chết hoặc có tuyên bố mất tích của Tòa án mà khi chết, mất tích không có ai đang cùng chung sống;

    đ) Nhà ở cho thuê bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ hoặc thuộc khu vực đã có quyết định thu hồi đất, giải tỏa nhà ở hoặc có quyết định phá dỡ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nhà ở cho thuê thuộc diện bị Nhà nước trưng mua, trưng dụng để sử dụng vào các mục đích khác.

    Bên cho thuê phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước 30 ngày về việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở quy định tại điểm này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;

    e) Chấm dứt theo quy định tại Điều 132 của Luật này”.

    Như vậy, do không hề có đề cập về vấn đề chấm dứt hợp đồng trong hợp đồng nếu bạn muốn chấm dứt hợp đồng thì phải có sự thỏa thuận với bên cho thuê về việc chấm dứt này.

    Bạn nói bạn muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà, tuy nhiên theo quy định tại khoản 3, Điều 132, Luật nhà ở thì trường hợp của bạn không đáp ứng điều kiện. Cụ thể:

    “Bên thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở khi bên cho thuê nhà ở có một trong các hành vi sau đây:

    a) Không sửa chữa nhà ở khi có hư hỏng nặng;

    b) Tăng giá thuê nhà ở bất hợp lý hoặc tăng giá thuê mà không thông báo cho bên thuê nhà ở biết trước theo thỏa thuận;

    c) Khi quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba”.

    Bạn chỉ có thể chấm dứt khi thỏa thuận chấm dứt, nếu bạn vẫn muốn chấm dứt khi bên kia không đồng ý thì bạn phải trách nhiệm bồi thường cho bên kia.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về những tình huống trên.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về trách nhiệm dân sự của pháp nhân?

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về trách nhiệm dân sự của pháp nhân?

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về trách nhiệm dân sự của pháp nhân?

    Ông Thái là người đại diện theo pháp luật của công ty X thực hiện ký kết hợp đồng cho thuê thiết bị thi công công trình với công ty H. Tuy nhiên, do sơ suất nên thiết bị giao cho công ty H bị chậm tiến độ thời gian, công ty H yêu cầu công ty X phải bồi thường theo điều khoản đã được quy định trong hợp đồng.

    Luật sư cho tôi hỏi trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thuộc về ông Thái hay công ty X?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân và pháp nhân thì đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với những hành vi của mình. Cá nhân và pháp nhân có trách nhiệm dân sự khác nhau, về trách nhiệm dân sự của pháp nhân được quy định theo Bộ Luật dân sự. Vậy năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và trách nhiệm dân sự của pháp nhân được quy định như thế nào?

    1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

    Căn cứ theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 về Pháp nhân:

    “Điều 74. Pháp nhân

    1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

    b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;

    c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;

    d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

    2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.”

    Pháp nhân là một tổ chức được công nhận khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể Pháp nhân phải là tổ chức được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 cũng như các luật khác có liên quan.

    Pháp nhân phải có cơ cấu tổ chức cụ thể như sau: Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.

    Đồng thời pháp nhân phải là tổ chức có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình khi có các rủi ro thiệt hại xảy ra trong quá trình hoạt động của pháp nhân và trong quá trình hoạt động thì tổ chức này nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

    Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định cụ thể tại Điều 86 Bộ luật dân sự năm 2015 cụ thể như sau:

    – Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cầu thành năng lực chủ thể của pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Giống với quy định về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.

    Những quyền và nghĩa vụ thuộc năng lực pháp luật của pháp nhân được pháp luật ghi nhận vào bảo vệ. Những quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới dạng khả năng, nếu pháp nhân muốn hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ đang ở dạng khả năng thành hiện thực thi phải thông qua hành vi của pháp nhân trên thực tế.

    So với Bộ luật dân sự năm 2005, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không còn bị giới hạn trong nội dung: phù hợp với mục đích hoạt động của minh mà hướng tới quy định mở rộng hơn năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác liên quan có liên quan Quy định này phủ hợp với chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế của Nhà nước.

    – Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.

    Bộ luật dân sự năm 2005 quy định chung chung về thời điểm pháp nhân bắt đầu có năng lực pháp luật dân sự là khi pháp nhân được thành lập thì Bộ luật dân sự năm 2015 đã chỉ rõ những thời điểm, cụ thể:

    + Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập bao gồm thời điểm Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập. Riêng đối với pháp nhân phải đăng ký hoạt động thi năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào số đăng ký.

    Từ thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự và có thể tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng.

    – Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.

    Khi pháp nhân giải thể, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì chấm dứt tư cách chủ thể trong các quan hệ pháp luật, cho nên năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm pháp nhân chấm dứt hoạt động.

    vợ chồng
    vợ chồng
    1. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân:

    Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được hiểu là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với pháp nhân vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho các bên bị thiệt hại trong quá trình hoạt động.

    Căn cứ theo quy định tại Điều 87 Bộ luật dân sự năm 2015 về Trách nhiệm dân sự của pháp nhân như sau:

    “Điều 87. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân

    1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

    Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    1. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
    2. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.”

    Theo đó, Khoản 1 Điều này quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

    Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    Pháp nhân được hiểu là một tổ chức nhất định của con ngươi, được pháp luật của Nhà nước quy định có quyền năng chủ thể. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng được Nhà nước công nhận có tư cách pháp nhân.

    Chỉ những tổ chức được thành lập theo trình tự, thủ tục và có đủ các điều kiện do pháp luật quy định hoặc tồn tại trên thực tế đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được Nhà nưốc công nhận thì mới có tư cách pháp nhân. Nếu một tổ chức có tư cách pháp nhân thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân mà luật đã quy định.

    Theo Khoản 1 Điều 87 nêu trên thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

    Trong quá trình hoạt động, pháp nhân tham gia các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể và pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

    Cũng cần lưu ý thêm, pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm nếu người đại diện của pháp nhân thực hiện đúng phạm vi, thẩm quyền đại diện của mình. Trong trường hợp, nếu người đại diện của pháp nhân thực hiện việc đại diện sai, vượt quá thẩm quyền thì pháp nhân không phải chịu trách nhiệm mà trách nhiệm thuộc về cá nhân có hành vi vi phạm.

    Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    – Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

    Một trong những đặc điểm cơ bản của pháp nhân là sự độc lập về tài sản so với các chủ thể khác và với chính các thành viên của pháp nhân. Do đó, trách nhiệm dân sự của pháp nhân được thực hiện trong phạm vi tài sản của chính pháp nhân.

    Sự độc lập này dẫn tới hai hệ quả đối ngược nhau là:

    + Nếu thành viên pháp nhân xác lập, thực hiện các hoạt động không nhân danh pháp nhân hoặc nhân danh pháp nhân nhưng không thuộc phạm vi quyền hạn của mình thì các thành viên phải tự chịu trách nhiệm dân sự mà mình xác lập, đây không phải là trách nhiệm của pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

    Ví dụ: A là thành viên của công ty B nhưng ký hợp đồng nhân danh B với khách hàng không có ủy quyền của B thì trách nhiệm dân sự phát sinh từ hợp đồng hoàn toàn do A phải chịu trách nhiệm.

    + Nếu trách nhiệm dân sự phát sinh đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện thì các thành viên không chịu trách nhiệm dân sự, đây là trách nhiệm của pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Ví dụ: Theo ủy quyền của giám đốc, C đã ký hợp đồng nhân danh công ty với khách hàng thì mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thuộc trách nhiệm dân sự của công ty.

    Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác do pháp nhân tự mình chịu trách nhiệm đối với những hoạt động của mình và độc lập.

    Như vậy, pháp nhân được bộ luật dân sự quy định về trách nhiệm phải chịu trong quá trình hoạt động. Theo đó pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các trường hợp: người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm phát triển pháp nhân.

    Đối với các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình hoạt động do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân thì pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ các nghĩa vụ này, trừ trường hợp giữa pháp nhân và những cá nhân này có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

    Theo quy định về thành lập pháp nhân thì pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình một cách độc lập và pháp nhân không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân. Trường hợp này người của pháp nhân phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các hành vi của mình do những hành vi này không nhân danh pháp nhân và không thực hiện vì pháp nhân.

    1. Kết luận:

    Ở đây, ông Thái là người đại diện theo pháp luật của công ty X, ông Thái chỉ đại diện cho công ty X, nhân danh công ty X xác lập thực hiện nghĩa vụ giao kết hợp đồng với công ty H.

    Vì vậy, ông Thái không phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình trong việc bồi thường theo điều khoản đã được quy định trong hợp đồng. Công ty X phải chịu trách nhiệm bồi thường cho công ty H theo điều khoản đã được quy định.

    Ông thái sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới và trách nhiệm liên đới của ông Thái sẽ được xác định theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty.

    Như vậy, trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thuộc về công ty X.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực dân sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên theo quy định của pháp luật 2022

    Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên theo quy định của pháp luật 2022

    Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên theo quy định của pháp luật 2022.

    Trên đường đi tập thể dục buổi sáng, ông Cường phát hiện thấy có một chiếc túi xách đen rơi bên đường. Ông mở ra thấy có hơn 20 triệu tiền mặt và một số giấy tờ mang tên anh Nguyễn Văn Dũng, tuy nhiên lại không rõ địa chỉ cư trú của Dũng.

    Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này, ông Cường phải làm gì? Pháp luật quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên như thế nào?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    Trong cuộc sống hàng ngày, việc cá nhân vô tình đánh rơi hoặc bỏ quên tài sản của mình diễn ra rất phổ biến. Pháp luật đã có những quy định đối với người nhặt được tài sản của người khác bị đánh rơi, bỏ quên.

    Cụ thể như: người nhặt được tài sản phải trả lại cho người đánh rơi, bỏ quên hoặc phải giao cho cơ quan có thẩm quyền gần nhất. Nhằm mục đích giúp chủ nhân của những tài sản bị đánh rơi hoặc bỏ quên đó có thể tìm được phần tài sản của mình.

    Đối với hành vi cố ý che giấu, không trả lại cho người có tài sản bị đánh rơi, bỏ quên và vấn đề xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên được pháp luật hiện hành 2022 quy định như thế nào?

    1. Quy định về tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên

    Căn cứ theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về Quyền sở hữu:

    “Điều 158. Quyền sở hữu

    Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”

    Theo đó, pháp luật có quy định quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.

    Trong đó, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu.

    Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hương hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

    Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật. Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản…

    Tài sản bị đánh rơi, bỏ quên là những tài sản có chủ sở hữu nhưng do những lý do khách quan hoặc chủ quan từ chính chủ sở hữu hoặc người đang quản lý mà tài sản không còn nằm trong sự chi phối, chiếm hữu của các chủ thể đó.

    Nếu tài sản được phát hiện trên đường đi, vỉa hè.. thì thường được xác định là tài sản bị đánh rơi. Ngược lại, nếu tài sản được xác định ở những vị trí thường được lựa chọn để đồ thì thường được xác định là tài sản bị bỏ quên.

    1. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên

    Việc xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản phải được xác lập theo các căn cứ xác lập quyền sở hữu quy định tại Điều 221 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Cụ thể:

    “Điều 221. Căn cứ xác lập quyền sở hữu

    Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong trường hợp sau đây:

    1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
    2. Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
    3. Thu hoa lợi, lợi tức.
    4. Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
    5. Được thừa kế.
    6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
    7. Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
    8. Trường hợp khác do luật quy định.”

    Trong đó có việc chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.

    Căn cứ xác lập quyền sở hữu được quy định tại Điều 221 chỉ có thể áp dụng với các tài sản là động sản vì chỉ có động sản mới có thể dịch chuyển, di rời mà không làm ảnh hưởng đến tính năng, công dụng của nó. Kể từ thời điểm tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, chủ sở hữu chưa mất quyền sở hữu của mình đối với tài sản.

    Do vậy, người phát hiện ra tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó.

    Trường hợp nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

    Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên được quy định tại Điều 230 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

    Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên

    1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

    Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

    1. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

    a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;

    trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

    b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.”

    Theo đó pháp luật quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên, cụ thể như sau:

    – Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

    Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

    – Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

    + Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;

    Trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

    + Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

    Từ quy định tại điều luật nêu ở trên có thể thấy sau thời gian là một năm kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định khi tài sản bị đánh rơi, bỏ quên không thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản được thực hiện như sau:

    + Nếu tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;

    +  Nếu tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.

    Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước. Người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

    Bên cạnh đó, cũng được xác định dựa trên nội dung của điều luật vừa được nêu thì Uỷ ban nhân dân hoặc công an cơ sở đã nhận vật phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

    Người nhặt được tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà cố ý không trao trả cho người đánh mất hoặc không giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã sẽ bị xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm.

    1. Phạt hành chính:

    Từ quy định về việc xử phạt đối với những hàng vi nhặt được tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà cố ý không trao trả cho người đánh mất hoặc không giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền thì sẽ bị xử phạt hành chính theo điểm e, khoản 2 Điều 15 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, hành vi “chiếm giữ trái phép tài sản của người khác” sẽ bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến năm triệu đồng.

    1. Tội chiếm giữ trái phép tài sản

    Không chỉ quy định về xử phạt hành chính mà còn có quy định về xử lý hình sự theo như quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

    “Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản

    1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
    2. Phạm tội chiếm giữ tài sản tội giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

    Như vậy, có thể thấy rằng hệ thống pháp luật nước ta đã quy định rất chặt chẽ về vấn đề tài sản bị đánh rơi, bỏ quên để nhằm mục đích người có tài sản bị đánh rơi bỏ quên này có thể tìm lại phần tài sản bị mất của mình.

    Bên cạnh đó cũng nhằm mục đích để người nhặt được phần tài sản này phải trả lại cho người là chủ tài sản hoặc giao cho cơ quan có thẩm quyền và không thực hiện hành vi chiếm hữu phần tài sản của người khác.

    Đối với những hành vi cố ý giữ tài sản của người khác khi nhặt được mà có giá trị thấp thì sẽ bị xử phạt hành chính còn đối với việc cố tình không trả đối với tài sản trị giá từ 10 triều trở lên thì sẽ bị xử lý theo pháp luật hình sự.

    Như vậy, theo các quy định trên thì ông Cường phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực dân sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Quyền thừa kế và quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017

    Quyền thừa kế và quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017

    Quyền thừa kế và quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

    Ông Bách mất để lại di chúc viết tay, trong đó có nội dung chia tài sản là một căn nhà và 02 mảnh đất thuộc quyền sở hữu của ông cho con trai là anh Quang. Thấy vậy, chị Phương là con gái nhưng không được nhận tài sản nào tỏ ra rất bức xúc.

    Đầu năm nay, anh Quang muốn xây nhà thờ họ trên 01 mảnh đất mà ông Bách để lại. Chị Phương nghe nói vậy phản đối kịch liệt và cho rằng anh Quang chỉ có quyền trông coi tài sản mà cha để lại chứ không được tự ý sử dụng.

    Luật sư cho tôi hỏi, theo quy định pháp luật, anh Quang có quyền xây nhà thờ trên mảnh đất cha để lại không?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Định nghĩa thừa kế theo Bộ luật Dân sự 2015:

    Thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại gọi là di sản.

    Trong đó, thừa kế được chia thành 02 hình thức:

    – Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017).

    “Điều 649. Thừa kế theo pháp luật

    Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.”

     

    – Thừa kế theo di chúc: là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi họ còn sống (Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017).

    “Điều 624. Di chúc

    Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”

    Theo đó, đối với thừa kế theo di chúc, khi muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết, người có tài sản thường chọn lập di chúc. Và những người có tên trong di chúc sẽ được hưởng thừa kế theo di chúc này.

    Ngoài ra, không chỉ những người có tên trong di chúc mà căn cứ theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:

    “Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

    1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

    a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

    b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

    2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

    Theo đó, những người sau đây sẽ vẫn được hưởng thừa kế dù nội dung di chúc không để lại tài sản cho họ:

    – Con chưa thành niên của người để lại di chúc.

    – Cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người để lại di chúc.

    – Con dù đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.

    Lưu ý: Nếu những đối tượng trên từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản thì không được hưởng di sản theo quy định này.

    Đồng thời, căn cứ Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Hiệu lực của di chúc:

    “Điều 643. Hiệu lực của di chúc

    1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
    2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

    a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

    b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

    Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

    1. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
    2. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
    3. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.”

    Theo đó, Khoản 1 Điều này quy định di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế – thời điểm người để lại di chúc chết.

    Do đó, khi người có tài sản vẫn còn sống thì tài sản vẫn thuộc về người đó. Chỉ đến khi chết, nếu người này có lập di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc theo ý nguyện lúc còn sống của người để lại di chúc.

    Như vậy, có thể hiểu, thừa kế theo di chúc là việc người thừa kế được hưởng di sản do người khác để lại theo di chúc (ý nguyện mà người có tài sản đã lập khi còn sống).

     

    1. Quyền thừa kế theo Bộ luật Dân sự 2015:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về Quyền thừa kế:

    Điều 609. Quyền thừa kế
    Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
    Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

    Theo đó, pháp luật quy định người thừa kế được hưởng di sản theo mong muốn của người lập di chúc để lại. Vì vậy, trong trường hợp này, việc anh Quang được nhận thừa kế một căn nhà và 02 mảnh đất do cha để lại hoàn toàn hợp pháp.

     

    1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 221 Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Căn cứ xác lập quyền sở hữu:

    “Điều 221. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
    Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong trường hợp sau đây:

    1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
    2. Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
    3. Thu hoa lợi, lợi tức;
    4. Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
    5. Được thừa kế;
    6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
    7. Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
    8. Trường hợp khác do luật quy định.”

    Trong khoa học pháp lý, căn cứ xác lập quyền sở hữu thường được phân loại thành: căn cứ nguyên sinh và căn cứ phái sinh.

    Căn cứ nguyên sinh là những căn cứ dẫn đến việc xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu đầu tiên đối với tài sản. Căn cứ nguyên sinh bao gồm các trường họp xác lập quyền sở hữu sau đây:

    • Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh họp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
    • Thu hoa lợi, lợi tức;
    • Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chể biến;

    Căn cứ phái sinh là những căn cứ dẫn đến việc xác lập quyền sở hữu cho các chủ thể từ chủ thể thứ hai trở đi (tức là tài sản trước đó đã thuộc sở hữu của một chủ thể khác). Căn cứ phái sinh bao gồm các trường hợp sau đây:

    • Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
    • Được thừa kế.

    Quyền sở hữu cũng có thể được xác lập trong những trường hợp cụ thể khác do pháp luật quy định. Tuy nhiên, các trường hợp cụ thể này đều có thể được phân loại vào một trong hai nhóm căn cứ xác lập quyền sở hữu nêu trên.

    • Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
    • Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

    Cụ thể, Điều 236 Bộ luật này quy định như sau:

    “Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

    Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

    1. Xác lập quyền sở hữu do thừa kế.

    Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu rất phổ biến.

    Căn cứ theo Điều 234 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế:

    “Điều 234. Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế

    Người thừa kế được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này.”

    Cá nhân, tổ chức có thể được hưởng thừa kế tài sản theo di chúc hoặc theo pháp luật, trong đó người thừa kế không phải là cá nhân chỉ có quyền hưởng thừa kế theo di chúc.

    Những người thừa kế được xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế theo phù hợp với những quy định về thừa kế tại Phần thứ tư Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

    Trong xác lập quyền sở hữu do được thừa kế, việc xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi từ thời điểm đó người được xác lâp quyền sở hữu có thu nhận những lợi ích từ tài sản, gánh vác trách nhiệm liên quan đến nội dung quyền sở hữu cũng như những rủi ro từ tài sản.

    Điều 614 Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về việc những người thừa kế có quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại kể từ thời điểm mở thừa kế. Do vậy, thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế là thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản thừa kể chết).

     

    1. Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức.

    Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Định nghĩa và quy định Hoa lợi, lợi tức được quy định tại Điều 109 Bộ luật dân sự 2015.

    Theo Điều 224 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, hoa tức:

    “Điều 224. Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức

    Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó.”

    Về mặt nguyên tắc, chủ sở hữu là người có quyền hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản của mình. Điều 189 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

    “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức. Quyền sử dụng có thể chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.

    Khi chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản của mình và tài sản đó tạo ra hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức này thuộc về chủ sở hữu.

    Khi quyền sử dụng tài sản được chuyển giao cho người khác thì việc xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

    Chủ sở hữu có quyền thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản của mình bằng mọi hình thức hợp pháp.

     

    1. Kết luận:

    Theo quy định trên, việc anh Quang được thừa kế theo di chúc là căn cứ để xác lập quyền sở hữu của anh đối với tài sản cha để lại là một căn nhà và 02 mảnh đất. Quyền sở hữu của anh Quang với tài sản trên được xác lập, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Như vậy, anh Quang có quyền xây nhà thờ họ trên mảnh đất cha để lại theo thành ý của bản thân.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực dân sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu có được cấp sổ đỏ theo quy định pháp luật hiện hành 2022

    Đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu có được cấp sổ đỏ theo quy định pháp luật hiện hành 2022

    Sổ đỏ hay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.

    Do đó chủ sở hữu đất cần thực hiện các thủ tục để được cấp sổ đỏ theo quy định, tuy nhiên theo quy định của pháp luật khi muốn được cấp sổ đỏ cần đáp ứng các yêu cầu theo luật định mà trong đó yêu cầu về diện tích tối thiểu là một yêu cầu bắt buộc để xét cấp sổ đỏ.

    1. Căn cứ pháp lý

    Luật Đất đai 2013

    Nghị định 43/2014/NĐ-CP

    2. Điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

    Trước tiên, để được cấp sổ đỏ thì người sử dụng đất phải thuộc các trường hợp sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất,

    Người đang sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại các điều 100, 101 và 102 của Luật Đất đai 2013:

    Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

    g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn,

    nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai,

    nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

    Điều 102. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất

    1. Tổ chức đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với phần diện tích đất sử dụng đúng mục đích.

    2. Phần diện tích đất mà tổ chức đang sử dụng nhưng không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được giải quyết như sau:

    a) Nhà nước thu hồi phần diện tích đất không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, cho mượn, cho thuê trái pháp luật, diện tích đất để bị lấn, bị chiếm;

    b) Tổ chức phải bàn giao phần diện tích đã sử dụng làm đất ở cho Ủy ban nhân dân cấp huyện để quản lý;

    trường hợp đất ở phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì người sử dụng đất ở được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

    trường hợp doanh nghiệp nhà nước sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối đã được Nhà nước giao đất mà doanh nghiệp đó cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng một phần quỹ đất làm đất ở trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì phải lập phương án bố trí lại diện tích đất ở thành khu dân cư trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất phê duyệt trước khi bàn giao cho địa phương quản lý.

    3. Đối với tổ chức đang sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước cho thuê đất quy định tại Điều 56 của Luật này thì cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh làm thủ tục ký hợp đồng thuê đất trước khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    4. Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Được Nhà nước cho phép hoạt động;

    b) Không có tranh chấp;

    c) Không phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày 01 tháng 7 năm 2004.

    5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

    3. Điều kiện để thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

    diện tíchTheo quy định tại Điều 29 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về điều kiện để thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sổ đỏ) đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được quy định như sau:

    1. Thửa đất đang sử dụng được hình thành từ trước ngày văn bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

     2. Không được công chứng, chứng thực, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không được làm thủ tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với trường hợp tự chia tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp Giấy chứng nhận thành hai hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất một thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

     3. Trường hợp người sử dụng đất xin tách thửa đất thành thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu đồng thời với việc xin được hợp thửa đất đó với thửa đất khác liền kề để tạo thành thửa đất mới có diện tích bằng hoặc lớn hơn diện tích tối thiểu được tách thửa thì được phép tách thửa đồng thời với việc hợp thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho thửa đất mới”.

    Như vậy, để được cấp sổ đỏ thì thửa đất phải đáp ứng các điều kiện sau:

    – Thứ nhất, thửa đất đang sử dụng có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được hình thành từ trước ngày văn bản quy định của UBND cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành. (Tại Hà Nội: Thửa đất có diện tích nhỏ hơn 30m2 chỉ được cấp giấy chứng nhận nếu được hình thành trước ngày 10/4/2009 – thời điểm Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 có hiệu lực thi hành).

    – Thứ hai, thửa đất đang sử dụng có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu có đủ điện kiện cấp sổ đỏ.

    Trường hợp người sử dụng đất tự chia tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp giấy chứng nhận thành hai hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất một thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì sẽ không được công chứng và cấp giấy tờ nhà đất.

    Trường hợp người sử dụng đất xin tách thành thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu đồng thời với việc xin được hợp với thửa đất khác liền kề để tạo thành thửa đất mới có diện tích bằng hoặc lớn hơn diện tích tối thiểu được tách thửa thì được phép tách thửa đồng thời với việc hợp thửa. Lô đất mới này sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Trên đây là nội dung tìm hiểu của chúng tôi về chủ đề Cấp sổ đỏ cho đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về Giao dịch dân sự có hiệu lực?

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về Giao dịch dân sự có hiệu lực?

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định như thế nào về Giao dịch dân sự có hiệu lực? Khái niệm? Điều kiện? Hậu quả?

    Ông Quân mất để lại một mảnh đất có diện tích gần 200m2 cho hai con trai là Tuấn và Hưng. Tuấn do đam mê cờ bạc nên đã bán hết tài sản riêng của mình.

    Gần đây, một công ty nước ngoài muốn mua lại mảnh đất nói trên để mở công ty với giá cao nên Tuấn vận động Hưng đồng ý bán đất rồi chia tiền nhưng Hưng nhất quyết không đồng ý.

    Thấy vậy, Tuấn lừa chuốc say Hưng để Hưng ký vào bản hợp đồng bán mảnh đất mà ông Quân để lại. Luật sư cho tôi hỏi, trong trường hợp này, giao dịch dân sự trên có hiệu lực không?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1.      Khái niệm giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về giao dịch dân sự, theo đó giao dịch dân sự được định nghĩa như sau:

    “Điều 116. Giao dịch dân sự

    Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

    Trong đó, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    “Điều 385. Khái niệm hợp đồng

    Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

    Căn cứ theo quy định tại Điều 684 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Hành vi pháp lý đơn phương:

    “Điều 684. Hành vi pháp lý đơn phương

    Pháp luật áp dụng đối với hành vi pháp lý đơn phương là pháp luật của nước nơi cá nhân xác lập hành vi đó cư trú hoặc nơi pháp nhân xác lập hành vi đó được thành lập.”

    Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương được hiểu là sự thể hiện ý chí của một bên làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

    Ví dụ: lập di chúc, hứa thưởng,..

    2.      Hình thức của giao dịch dân sự:

    Căn cứ theo Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Hình thức giao dịch dân sự:

    “Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự

    1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

    Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

    2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”

    Theo đó, pháp luật quy định các hình thức của giao dịch dân sự bao gồm:

    – Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

    – Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

    3.      Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015:

    Căn cứ theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:

    “Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

    1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

    b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

    c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

    2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

    Theo đó, pháp luật quy định giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

    – Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

    – Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

    – Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

    Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. (Ví dụ: hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực).

    4.      Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật Dân sự 2015:

    Có 07 trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu. Cụ thể như sau:

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. (Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

    Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

    Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

    Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. (Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

    1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

    2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. (Điều 125 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 125. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

    1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

    a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

    b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

    c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. (Điều 126 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

    1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. (Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

    Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. (Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

    Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.”

     

    – Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. (Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015)

    “Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

    Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

    1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

    2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”

    5.      Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật Dân sự 2015:

    Căn cứ theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:

    “Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

    Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

    3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

    4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

     

    6.      Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật Dân sự 2015:

    Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

    “Điều 132. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

    a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

    b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

    c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

    d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

    đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

    2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

    3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”

     

    7.      Kết luận:

    Trong trường hợp này, Tuấn đã lợi dụng lúc Hưng say rượu để lừa Hưng ký hợp đồng bán mảnh đất do ông Quân để lại cho 2 anh em. Như vậy, Hưng là người có năng lực hành vi dân sự nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch Hưng đã không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Vì vậy, Hưng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực dân sự hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120

  • Tuyên bố mất tích theo pháp luật hiện hành 2022

    Tuyên bố mất tích theo pháp luật hiện hành 2022

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Tuyên bố mất tích là gì?

    tuyên bố mất tíchTheo khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015: “Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

    Việc tuyên bố cá nhân mất tích sẽ chấm dứt tạm thời tư cách chủ thể, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người đó. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

    3. Điều kiện để tuyên bố một người mất tích

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ Luật dân sự 2015, điều kiện để Tòa án tuyên bố mất tích là:

    • Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án có thể tuyên bố người đó đã mất tích.
    • Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng của người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    Như vậy, một trong những điều kiện cần để tuyên bố mất tích đối với một người là đã thông báo tìm kiếm đối với người này trước đó và thời gian biệt tích phải kéo dài liên tục ít nhất 2 năm. Đồng thời, điều kiện đủ để tình trạng mất tích được ghi nhận là có người yêu cầu Tòa án ra tuyên bố mất tích và tòa án ra quyết định tuyên bố mất tích theo đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

    4. Người có quyền yêu cầu tuyên bố mất tích

    Chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố một người mất tích đó là người có quyền, lợi ích liên quan. Có thể hiểu, đây là những người có mối liên hệ trong quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ hành chính, quan hệ lao động, quan hệ dân sự hoặc các quan hệ khác mà quyền lợi của họ bị ảnh hưởng do sự vắng mặt của chủ thể.

    5. Hậu quả của việc tuyên bố mất tích

    Tuyên bố mất tích

    Căn cứ: khoản 2 Điều 68, Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015

    • Tư cách chủ thể: Khi Tòa án tuyên bố một người mất tích thì tạm thời tư cách chủ thể của người đó bị dừng lại đến khi người đó trở về thì tư cách chủ thể được phục hồi.
    • Về quan hệ nhân thân: Các quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố mất tích cũng tạm dừng. Vì người tuyên bố bị mất tích vẫn có thể suy đoán còn sống nhưng do thời gian biệt tích kéo dài quá lâu nên suy đoán này đã yếu đi. Chính vì người bị tuyên bố mất tích không chắc còn sống mà nếu người này có vợ, chồng và vợ, chồng có đơn xin ly hôn thì Tòa án sẽ cho ly hôn mà không cần xem xét các yếu tố khác của vụ việc.
    • Về quan hệ tài sản:

    Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú thì tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú.

    Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

    6. Huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích

    Căn cứ: Điều 70 Bộ luật Dân sự 2015

    • Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.
    • Về quan hệ tài sản: Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
    • Về quan hệ nhân thân: Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
    • Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

    7. Trình tự, thủ tục yêu cầu tuyên bố mất tích

    Bước 1: Chuẩn bị và nộp hồ sơ hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền

    Chuẩn bị hồ sơ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tuyên bố mất tích đối với một người.

    Căn cứ khoản 3 Điều 27, điểm a khoản 2 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thẩm quyền tuyên bố một người mất tích thuộc Tòa án nhân dân huyện nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết.

    Hồ sơ cần chuẩn bị bao gồm:

    • Đơn yêu cầu tuyên bố mất tích (theo mẫu);
    • Tài liệu chứng minh người đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết;
    • Tài liệu, chứng cứ chứng minh đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm mà vẫn không có tin tức;
    • Bản sao quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú (nếu có).

    Bước 2: Thông báo tìm kiếm người mất tích

    Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo tìm kiếm lần đầu tiên.

    Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn 4 tháng thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố mất tích.

    Bước 3: Ra quyết định tuyên bố người mất tích

    Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo theo quy định thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

    Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố mất tích thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích; trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định tuyên bố một người mất tích, Tòa án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự.

    Thời gian tuyên bố mất tích

    Thời gian tuyên bố một người mất tích trong vòng 05 tháng được thực hiện như sau:

    + Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích.

    + Nội dung thông báo và việc công bố thông báo được thực hiện theo quy định pháp luật. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên.

    + Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.

    + Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

    8. Tình huống minh hoạ

    Vợ chồng tôi cưới nhau được 3 năm và có 1 con chung. Năm 2019, Sau khi sinh bé thì vợ tôi bị trầm cảm sau sinh và bỏ nhà đi. Sau khi cô ấy đi tôi có tìm kiếm thông qua bạn bè, báo đài nhưng đến nay vẫn chưa có tin tức gì về vợ tôi. Bây giờ tôi muốn ly hôn có được không?

    Vợ bạn mất tích từ năm 2019, tính đến nay đã được 3 năm, bạn có thể yêu cầu Toà án tuyên bố mất tích. Cụ thể, khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Tuyên bố mất tích như sau:

    Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

    Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    Bên cạnh đó, khoản 2 Điều này quy định: “Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về Ly hôn theo yêu cầu của một bên cũng quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

    Như vậy, trong trường hợp vợ bạn bỏ đi, bạn được quyền ly hôn khi Toà án đã tuyên bố vợ bạn mất tích. Trước hết, bạn hoặc người có quyền, lợi ích liên quan đến vợ bạn cần yêu cầu Toà án tuyên bố vợ bạn mất tích, sau khi có quyết định tuyên bố mất tích, bạn có thể làm thủ tục ly hôn.

    Trên đây là nội dung tìm hiểu của chúng tôi về chủ đề Tuyên bố mất tích theo pháp luật hiện hành 2022.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú theo Bộ luật Dân sự 2015

    Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú theo Bộ luật Dân sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    2. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó

    người vắng mặt tại nơi cư trúCăn cứ: Điều 64 Bộ luật Dân sự 2015

    Khi một người biệt tích 06 tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này.

    3. Thủ tục yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú

    Khoản 1 Điều 381 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định, những người có quyền, lợi ích liên quan đến người vắng mặt có quyền yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú khi người đó biệt tích 6 tháng liền trở lên. Cùng với yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, người yêu cầu có thể có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

    Bước 1: Nộp đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú

    Chủ thể nộp đơn là người có quyền, lợi ích liên quan nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, đồng thời có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó theo quy định của Bộ luật dân sự.

    Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn gồm có:

    • Đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú (Đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự theo mẫu số 01 Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP (Thay thế mẫu số 92 Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP).
    • Tài liệu, chứng cứ để chứng minh là người bị yêu cầu biệt tích 06 tháng liền trở lên.
    • Tài liệu, chứng cứ về tình hình tài sản của người bị yêu cầu, việc quản lý tài sản hiện có.
    • Danh sách những người thân thích của người bị yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.
    • Tài liệu, chứng cứ chứng minh người yêu cầu là người có quyền yêu cầu.
    • Giấy khai sinh, CMND/căn cước công dân/hộ chiếu/hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn của người bị yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.

    Đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có đủ các nội dung như một đơn yêu cầu nói chung quy định tại khoản 2 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trong đó nêu rõ yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm ai; họ, tên, nơi cư trú của người đó; lý do, mục đích và các căn cứ chứng minh cho yêu cầu này.

    Gửi kèm theo đơn yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có chứng cứ, tài liệu để chứng minh là người đó biệt tích trong 6 tháng liền trở lên như: xác nhận của cơ quan quản lý hộ tịch, của những người sống cùng với người đó trước khi vắng mặt, của người láng giềng, của tổ dân phố, thời gian không nhận được tin tức của họ.

    Bước 2: Thụ lý đơn yêu cầu

    Căn cứ: Điều 363, 365 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015

    Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán phải:

    • Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
    • Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự.
    • Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu.
    • Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu.

    Bước 3: Chuẩn bị xét đơn yêu cầu

    Căn cứ: Điều 382 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu.

    Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.

    Bước 4: Quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú

    Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu.

    Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.

    Trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt đó tại nơi cư trú và được chấp nhận thì trong quyết định, Tòa án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ luật dân sự.

    Bước 5: Công bố thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú

    Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thông báo này phải được đăng trên một trong các báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp, Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (nếu có) và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.

    4. Người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú

    Căn cứ: Điều 65 Bộ luật Dân sự 2015

    Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho người sau đây quản lý:

    • Đối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý;
    • Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
    • Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.

    Trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

    5. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú

    Căn cứ: Điều 66, 67 Bộ luật Dân sự 2015

    Quyền của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú:

    • Quản lý tài sản của người vắng mặt.
    • Trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt.
    • Được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt.

    Nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú:

    • Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình.
    • Bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng.
    • Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Tòa án.
    • Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và phải thông báo cho Tòa án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    6. Tình huống

    Lấy lý do bố mình đã đi biệt tích, anh Lê Văn A đã làm đơn gửi đến UBND xã B yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và yêu cầu để mình được quản lý tài sản của bố để lại. Nhưng UBND xã B cho rằng việc yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và việc giao cho người khác quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú không thuộc thẩm quyền của mình.

    Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành anh A phải làm đơn gửi đến cơ quan có thẩm quyền nào để giải quyết yêu cầu của mình?

    Theo Điều 64 Bộ luật dân sự quy định Khi một người biệt tích 06 tháng liền trở lên thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này.

    Như vậy, khi bố của anh A đã đi biệt tích và anh Lê Văn A đã làm đơn gửi đến UBND xã S yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và yêu cầu để mình được quản lý tài sản của bố để lại là đã gửi đến cơ quan không có thẩm quyền giải quyết.

    Do đó việc UBND xã B cho rằng việc yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và việc giao cho người khác quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú không thuộc thẩm quyền của mình là đúng với quy định của pháp luật.

    Trong trường hợp này, căn cứ vào Điều 64 Bộ luật dân sự nêu trên anh A phải làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố dụng dân sự để giải quyết yêu cầu của mình.

    Sau khi được Toà án chấp nhận yêu cầu tuyên bố ông C vắng mặt tại nơi cư trú, anh H muốn Toà án giao việc quản lý tài sản của ông C cho  anh quản lý trong khi đó tài sản chung giữa ông C và bà M, và bà M vẫn còn sống. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, yêu cầu của anh D có căn cứ pháp luật không?

    Tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho những người sau đây quản lý:

    – Đối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý;

    – Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;

    – Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.

    Như vậy, khi Toà án tuyên bố ông C vắng mặt tại nơi cư trú thì căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 65 Bộ luật dân sự nêu trên, tài sản của ông B nằm trong khối tài sản chung với vợ ông là bà M sẽ do bà M quản lý. Trong trường hợp này việc anh H muốn Toà án giao việc quản lý tài sản của ông C cho anh quản lý là không có căn cứ pháp luật.

    Trên đây là nội dung tìm hiểu của chúng tôi về chủ đề Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú theo Bộ luật Dân sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Quy định về người đại diện theo Bộ luật Dân sự 2015

    Quy định về người đại diện theo Bộ luật Dân sự 2015

    1. Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Dân sự 2015

    2. Khái niệm đại diện

    người đại diệnĐiều 134. Đại diện

    1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

    2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

    3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

    3. Căn cứ xác lập quyền đại diện

    Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện

    Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).

    Như vậy, về cơ bản Bộ luật Dân sự 2015 đều quy định căn cứ để xác lập quan hệ đại diện là theo ủy quyền hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ hơn về đại diện theo pháp luật bao gồm: (i) đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) đại diện theo điều lệ của pháp nhân; (iii) và các trường hợp đại diện theo pháp luật khác.

    4. Đại diện theo pháp luật

    Căn cứ vào Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện theo pháp luật có thể là cá nhân cũng có thể là một tổ chức pháp nhân, những người này đóng vai trò, trách nhiệm nhân danh quyền, lợi ích của những cá nhân, pháp nhân khác và hoạt động vì lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân đó, thực hiện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cá nhân, pháp nhân đại diện được gọi chung là người đại diện, cá nhân, pháp nhân giao quyền được gọi chung là người được đại diện.

    • Người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.
    • Vì người đại diện là cá nhân, pháp nhân nên điều kiện tiên quyết để được làm người đại diện là cần phải đáp ứng điều kiện có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đầy đủ năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật, và phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.
    • Tuy nhiên, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Thông thường, đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có đặc tính không thể chuyển giao cho người khác được.

    Các trường hợp đại diện theo pháp luật

    • Đại diện theo pháp luật của cá nhân

    Đại diện theo pháp luật của cá nhân quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015:

    • Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
    • Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
    • Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
    • Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

    Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

    Đại diện theo pháp luật của pháp nhân quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015:

    • Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
    • Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
    • Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

    Chú ý: Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.

    5. Đại diện theo uỷ quyền

    Căn cứ: Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015

    • Cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
    • Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
    • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

    6. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện

    Căn cứ: Điều 139 Bộ luật Dân sự 2015

    • Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
    • Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.
    • Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

    7. Thời hạn đại diện

    Căn cứ: Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015

    • Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
    • Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thời hạn đại diện được xác định như sau:

    a) Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó;

    b) Nếu quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.

    • Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:

    a) Theo thỏa thuận;

    b) Thời hạn ủy quyền đã hết;

    c) Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;

    d) Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;

    đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

    e) Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;

    g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.

    Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:

    a) Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;

    b) Người được đại diện là cá nhân chết;

    c) Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

    d) Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

    8. Phạm vi đại diện

    Căn cứ: Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015

    • Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:

    a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;

    b) Điều lệ của pháp nhân;

    c) Nội dung ủy quyền;

    d) Quy định khác của pháp luật.

    • Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
    • Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
    • Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.

    9. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

    Căn cứ: Điều 142 Bộ luật Dân sự 2015

    • Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

    b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

    c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

    • Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
    • Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
    • Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

    10. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện

    Căn cứ: Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015

    • Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người được đại diện đồng ý;

    b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

    c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.

    • Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
    • Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
    • Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

    Trên đây là nội dung tìm hiểu của chúng tôi về chủ đề Quy định về người đại diện theo Bộ luật Dân sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Pháp luật hiện hành năm 2022 quy định như thế nào về xác định mối quan hệ pháp luật tranh chấp?

    Pháp luật hiện hành năm 2022 quy định như thế nào về xác định mối quan hệ pháp luật tranh chấp?

    Pháp luật hiện hành năm 2022 quy định như thế nào về xác định mối quan hệ pháp luật tranh chấp?

    Ông A kết hôn với bà B và có 4 con chung. Sau khi bà B chết được một thời gian thì ông A chung sống như vợ chồng với Bà C và không đăng ký kết hôn. Ông A và bà C có sử dụng chung một khối tài sản gồm: nhà, đất thổ cư, đất nông nghiệp, đất trồng rừng.

    Nay, ông A chết, các con riêng của ông A cho rằng những tài sản trên là của ông A nên đã chiếm nhà đất nêu trên. Bà C khởi kiện yêu cầu các con riêng của ông A phải trả lại cho bà toàn bộ tài sản. Luật sư cho tôi hỏi, trường hợp này nên xác định mối quan hệ pháp luật là loại tranh chấp gì?

    Công ty Luật TNHH PT cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này của bạn như sau:

    1. Khái quát về quan hệ pháp luật

    a. Quan hệ pháp luật là gì?

    Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh trong đó các bên tham gia quan hệ pháp luật có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước bảo đảm thực hiện.

    b. Đặc điểm của quan hệ pháp luật

    Thứ nhất, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí của con người, nó được hình thành thông qua hoạt động có ý chí của con người. Ý chí trong quan hệ pháp luật được thể hiện bao gồm ý chí nhà nước và ý chí của các bên chủ thể quan hệ đó trong sự phù hợp với ý chí nhà nước.

    Pháp luật, công cụ điều chỉnh luôn chứa đựng ý chí nhà nước. Thông qua quy phạm pháp luật, mệnh lệnh của nhà nước được đặt ra đối với các bên tham gia quan hệ pháp luật, họ có thể làm gì, phải làm gì, làm như thế nào… Đây là cách thức xử sự phải tuân theo khi họ tham gia quan hệ pháp luật.

    Các bên tham gia quan hệ pháp luật bày tỏ ý chí của mình bằng việc tiến hành các hoạt động hoạt động nhất định trên cơ sở cách thức xử sự mà quy phạm đã nêu. Tùy theo khả năng của mình thành con người có ích cho xã hội phù hợp với pháp luật và đồng thời thỏa mãn nhu cầu của họ.

    Thứ hai, các bên tham gia quan hệ pháp luật có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước bảo đảm thực hiện. Có thể là các bên được phép hoặc bắt buộc phải tiến hành những xử sự nào đó, những xử sự này do pháp luật quy định, đó là quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật.

    Bằng xử sự thực tế của mình, các bên tham gia quan hệ pháp luật đã cụ thể hóa các cách xử sựu mà quy phạm đã nêu thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cho mình.

    Trong trường hợp các bên thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ pháp lý thì họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mà nhà nước đã dự kiến trong phần chế tài của quy phạm pháp luật.

    c. Phân loại quan hệ pháp luật

    Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của qua hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, quan hệ pháp luật được phân chia thành các loại tương ứng với các ngành luật: quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật đất đai…

    Căn cứ vào tính xác định của các bên tham gia quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và quan hệ pháp luật tương đối. Quan hệ pháp luật tuyệt đối là quan hệ mà một bên của quan hệ là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.

    Bên tham gia quan hệ được xác định là bên có quyền, các bên kia của quan hệ có nghĩa vụ tôn trọng các quyền này và không được vi phạm. Trong quan hệ pháp luật tương đối, các bên tham gia quan hệ pháp luật đều được xác định cụ thể, trong đó chỉ rõ cá nhân, tổ chức có những quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau.

    1. Những tranh chấp dân sự

    a) Tranh chấp dân sự là gì?

    Tranh chấp dân sự là những tranh chấp về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tranh chấp trong việc ký kết, thi hành và thanh toán các hợp đồng mua bán, đầu tư, chuyển giao công nghệ, vận chuyển, bảo hiểm hoặc trong việc thực hiện các quyền về nhân thân hoặc tài sản như quyền tác giả, phát minh, sáng chế, trong ly hôn, thừa kế…

    b)     Ví dụ về tranh chấp dân sự

    • Tranh chấp trong lĩnh vực dân sự:
    • Tranh chấp hợp đồng dân sự
    • Tranh chấp về thừa kế tài sản
    • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, …
    • Tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình:
    • Tranh chấp về cấp dưỡng
    • Tranh chấp về quyền nuôi con khi ly hôn
    • Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn, …
    • Tranh chấp trong lĩnh vực kinh, doanh, thương mại:
    • Tranh chấp giữa công ty với thành viên, tranh chấp giữa những thành viên với nhau
    • Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và có mục đích lợi nhuận, …
    • Tranh chấp trong lĩnh vực lao động:
    • Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
    • Bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng, …

     

    3.      Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là gì?

    a)      Khái niệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp

    Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hoạt động nhận thức của con người trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thông tin khác có trong một tình huống cụ thể nhằm tìm đến những quy định của pháp luật để giải quyết vấn đề được chính xác, đúng đắn.

    Vụ án có những quan hệ tranh chấp gì là từ yêu cầu của đương sự. Yêu cầu của đương sự bao gồm yêu cầu của nguyên đơn, phản tố của bị dơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

    Tất cả các yêu cầu đó tạo nên các quan hệ tranh chấp trong vụ án và cũng là phạm vi giải quyết của vụ án. Vụ án có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ tranh chấp.

    Xác định đúng quan hệ tranh chấp là để xác định phạm vi xét xử, áp dụng đúng pháp luật, mà trước hết là xác định có những đương sự nào trong vụ án. Xác định đúng quan hệ tranh chấp là đặt tên đúng các yêu cầu của đương sự chứ không phải là tùy tiện mở rộng phạm vi hay thu hẹp phạm vi yêu cầu của đương sự.

    b)     Các quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự

    Theo Điều 26 Luật Tố tụng Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 về Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

    “Điều 26. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

    1. Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
    2. Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
    3. Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
    4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
    5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
    6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
    7. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
    8. Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
    9. Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
    10. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.
    11. Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
    12. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
    13. Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
    14. Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.”

    Theo đó, pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền đối với những tranh chấp dân sự sau:

    • Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
    • Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
    • Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
    • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
    • Tranh chấp về thừa kế tài sản.
    • Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
    • Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
    • Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
    • Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
    • Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.
    • Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
    • Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
    • Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
    • Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

     

    Vụ án có những quan hệ tranh chấp là gì là từ yêu cầu của đương sự. Yêu cầu của đương sự bao gồm yêu cầu của nguyên đơn, phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

    Tất cả các yêu cầu đó tạo nên các quan hệ tranh chấp trong vụ án và cũng là phạm vi giải quyết của vụ án. Vụ án có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ tranh chấp.

    Xác định đúng quan hệ tranh chấp là để xác định phạm vi xét xử, áp dụng đúng pháp luật, mà trước hết là xác định có những đương sự nào trong vụ án. Xác định đúng quan hệ tranh chấp là đặt tên đúng các yêu cầu của đương sự chứ không phải là tùy tiện mở rộng phạm vi hay thu hẹp phạm vi yêu cầu của đương sự.

    1. Từ ví dụ trên có thể có những tình huống cụ thể như sau:

    • Tình huống 1:

    Bà C cho rằng bà là chủ duy nhất của khối tài sản mặc dù ông A đã từng sử dụng chung nên đòi những người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của bà trả lại tài sản (và không có phản tố hay yêu cầu độc lập nào khác) thì vụ án chỉ có quan hệ tranh chấp là đòi lại tài sản.

    Bị đơn chỉ là những người đang trực tiếp chiếm hữu tài sản (giả sử có 2 trong số 4 người con của ông A chiếm giữ tài sản), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là những người đang cùng chiếm giữ (như vợ của 2 người đang chiếm giữ).

    Nếu tòa án xác định yêu cầu của bà C là đúng thì chấp nhận buộc 2 người con của ông A và vợ của 2 người này trả lại tài sản cho bà C. Nếu tòa án xác định yêu cầu của bà C không hoàn toàn đúng thì bác yêu cầu của bà C (bác yêu cầu công nhận là chủ duy nhất).

    • Tình huống 2:

    Nếu bà C cho rằng khối tài sản đang bị chiếm là tài sản chung giữa bà với ông A, yêu cầu được trả lại phần của bà thì vụ án đã trở nên có 2 quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản và quan hệ tranh chấp chia tài sản chung.

    Trong trường hợp này các thừa kế của ông A phải tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chứ không phải chỉ có những người đang trực tiếp chiếm giữ tài sản).

    • Tình huống 3:

    Trong trường hợp bà C yêu cầu đòi lại tài sản thuộc phần do bà làm chủ, vừa yêu cầu chia di sản thừa kế của ông A hoặc bà C không yêu cầu chia thừa kế nhưng các con của Ông A lại có phản tố chia thừa kế thì vụ án đã trở nên có 3 quan hệ tranh chấp (thậm chí còn có thể có tranh chấp về việc bà C có quan hệ hôn nhân hợp pháp với ông A hay không).

    Đối tượng của vụ án có thể còn là những tài sản khác và có thể có thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

    1. Kết luận:

    Như vậy, việc xác định quan hệ tranh chấp không phải chỉ là việc đặt tên cho vụ án và không phải mỗi vụ án luôn luôn chỉ có một quan hệ tranh chấp.

    Trên đây là nội dung tư vấn về vấn đề của bạn theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu bạn đọc có vướng mắc gì về lĩnh vực hôn nhân và gia đình hay các lĩnh vực khác cần tư vấn, hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi.

    Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật TNHH PT, phòng 906, tòa nhà CT4-1, KĐT Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Hotline: 0888181120