Tác giả: admin

  • Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra theo Bộ luật Dân sự 2015

    Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra theo Bộ luật Dân sự 2015

    Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra là quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ghi nhận lần đầu tiên tại Bộ luật Dân sự năm 1995. Vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, vấn đề này được quy định như thế nào? Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý:

    Bộ luật Dân sự 2015

    Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra theo Bộ luật Dân sự 2015

    Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra:

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra hay còn gọi là trách nhiệm liên đới bồi thường của những người cùng gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại, xuất phát từ các hành vi vi phạm pháp luật. Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra được quy định tại Điều 587 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

    Trong những trường hợp có nhiều người cùng gây thiệt hại thì tất cả những người gây ra thiệt hại đó có trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng bên cùng gây thiệt hại sẽ được xác định theo mức độ vi phạm của mỗi cá nhân; nếu không thể xác định được mức độ vi phạm, thì các bên sẽ chịu trách nhiệm bồi thường như nhau

    Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006 thì  trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra phát sinh khi đáp ứng được các điều kiện sau:

    (1) Có hành vi gây thiệt hại của nhiều người;

    (2) Hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại phải được các bên cùng thực hiện hoặc có sự thống nhất với nhau;

    (3) Phải có yếu tố lỗi của tất cả những người cùng gây ra thiệt hại;

    (4) Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật của những người cùng gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.

    Tuy nhiên, Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự thay đổi cách tiếp cận về yếu tố lỗi. Theo quy định này, lỗi của người gây thiệt hại không được xác định là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường mà tập trung vào việc chứng minh rằng hành vi gây ra thiệt hại là vi phạm pháp luật là đủ điều kiện để áp dụng trách nhiệm bồi thường.

    Trách nhiệm bồi thường có thể được loại bỏ đối với người chịu trách nhiệm hoặc người gây ra thiệt hại trong các trường hợp  bất khả kháng hoặc người bị thiệt hại có lỗi hoàn toàn, trừ khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015).

    Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường liên đới của nhiều người cùng gây thiệt hại:

    Khi xem xét về trách nhiệm bồi thường của nhiều người cùng gây thiệt hại thì cần phải căn cứ vào những điều kiện sau:

    – Thứ nhất, phải có hành vi gây ra thiệt hại của nhiều người.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra sẽ không phát sinh khi chỉ có một người gây thiệt hại mà hành vi đó phải được thực hiện bởi nhiều người.

    Người gây ra thiệt hại có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc bất cứ chủ thể nào khác nhưng yêu cầu phải có ít nhất từ hai chủ thể trở lên, trong trường hợp chỉ có một người gây thiệt hại thì sẽ không phát sinh trách nhiệm này. Trường hợp này được xem là trách nhiệm liên đới của nhiều người có nghĩa vụ, người có quyền (bị thiệt hại) có thể là một hoặc nhiều người.

    – Thứ hai, hành vi trái pháp luật trong việc gây thiệt hại của nhiều người có sự thống nhất với nhau.

    Mặc dù có nhiều người cùng gây thiệt hại, nhưng không phải lúc nào cũng phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường. Để phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường giữa những người cùng gây ra thiệt hại thì giữa họ phải có sự thống nhất về hành vi gây thiệt hại.

    Khi nhiều người cùng gây thiệt hại, nếu chúng ta xem xét điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, hành vi của mỗi bên đều đáp ứng đầy đủ các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm trong tổng thể thiệt hại. Tuy nhiên, từng trường hợp có thể có những đặc điểm riêng biệt dựa trên mức độ lỗi của từng bên gây ra thiệt hại.

    Khi xác định việc “cùng” gây ra thiệt hại của nhiều người, cần phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Các yếu tố cần xem xét có thể bao gồm ý chí chủ quan của mỗi người, hành vi trực tiếp gây ra thiệt hại, yếu tố lỗi, hậu quả của các hành vi vi phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của từng với thiệt hại đã xảy ra…

    Tóm lại, cùng gây ra thiệt hại được hiểu là tổng hợp hành vi, lỗi của nhiều người diễn ra dưới các dạng khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên kết, tương hỗ và cùng gây ra thiệt hại cho đối tượng bị thiệt hại.

    – Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của những người cùng gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.

    Hành vi gây thiệt hại của những người cùng gây thiệt hại có thể khác nhau về mức độ nhưng hậu quả chung là gây thiệt hại cho người bị thiệt hại. Xem xét trong mối quan hệ nhân quả này, hành vi vi phạm pháp luật của những người cùng gây thiệt hại đã tạo nên tổng thể thiệt hại cho một hoặc nhiều người.

    Do đó những người thực hiện hành vi này phải cùng chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại. Việc xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của những người cùng gây thiệt hại cho người bị thiệt hại không chỉ nhằm xác định trách nhiệm bồi thường liên đới của những người này mà còn nhằm xác định mức bồi thường.

    – Thứ tư, lỗi của những người cùng gây thiệt hại.

    Khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại, việc xác định không chỉ dừng lại ở khía cạnh khách quan của hành vi đó mà còn cần quan tâm đến mặt chủ quan của người thực hiện hành vi.

    Theo quan điểm pháp lý, một người chỉ chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả của hành vi đó khi họ có đủ điều kiện để lựa chọn một hành động phù hợp với đòi hỏi của xã hội (cả khía cạnh khách quan và chủ quan), trừ những trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định. Pháp luật dân sự quy định rằng một người phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra khi người này có lỗi, không kể đó là lỗi vô ý hay cố ý.

    Mức bồi thường trong trách nhiệm bồi thường liên đới khi nhiều người cùng gây thiệt hại:

    Nguyên tắc chung khi nhiều người cùng gây thiệt hại là họ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị tổn thất. Tuy nhiên, mỗi người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả của hành vi mình thực hiện. Do đó, nếu chúng ta có thể xác định được mức độ lỗi của từng người, thì người gây ra thiệt hại sẽ bồi thường theo mức độ lỗi đó.

    Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra theo Bộ luật Dân sự 2015

    Trong trường hợp không thể xác định được mức độ lỗi của từng người thì họ sẽ phải bồi thường thiệt hại với mức độ như nhau. Theo quy định trên, khi có nhiều người cùng gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định như sau:

    – Theo nguyên tắc chung, mỗi người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả của hành vi mà mình đã thực hiện. Do đó, nếu chúng ta có thể xác định mức độ lỗi của từng người khi họ gây thiệt hại thì họ sẽ phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi đó.

    Tuy nhiên, việc xác định lỗi của mỗi người trong số những người cùng gây thiệt hại là một vấn đề khá phức tạp, vì lỗi thường mang tính chủ quan. Mặc dù vậy, việc đánh giá lỗi lại là một vấn đề mang tính khách quan, do đó chúng ta có thể xem xét mức độ lỗi và hình thức lỗi của những người gây thiệt hại để yêu cầu họ bồi thường một cách hợp lý.

    – Trong trường hợp không thể xác định được mức độ lỗi của những người gây thiệt hại, họ sẽ phải bồi thường với tỷ lệ như nhau. Ở đây, chúng ta không nên hiểu rằng pháp luật áp dụng nguyên tắc “cào bằng” khi có nhiều người cùng gây thiệt hại, thay vào đó, khi nhiều người gây thiệt hại mà không thể xác định được mức độ lỗi của từng người thì họ phải bồi thường thiệt hại theo tỷ lệ bằng nhau. Việc xác định rằng những người cùng gây thiệt hại phải bồi thường theo tỷ lệ bằng nhau không làm mất đi tính “liên đới” trong trường hợp này.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra theo Bộ luật Dân sự 2015.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

  • Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không? Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không? Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Công ty Luật TNHH PT xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp luật

    Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi ngoại tình được quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

    Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

    1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

    a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

    b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

    Hiện nay, pháp luật không có định nghĩa cụ thể như thế nào là hành vi ngoại tình.

    Tuy nhiên, có thể hiểu ngoại tình là việc người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.

    Theo quy định, người có hành vị ngoại tình có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp cụ thể sau đây:

    (1) Bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm nếu:

    – Ngoại tình làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

    – Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

    (2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    – Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

    – Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

    Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không? Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không?

    Đơn phương ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

    Ly hôn theo yêu cầu của một bên

    1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

    Đồng thời, căn cứ khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định như sau:

    Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

    4. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:

    Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.

    d) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

    Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

    5. Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.

    Theo quy định, vợ hoặc chồng có thể đơn phương ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi ngoại tình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

    Đồng thời, việc chia tài sản của vợ chồng khi đơn phương ly hôn trong trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì tài sản chung về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến yếu tố lỗi của vợ hoặc chồng.

    Trong trường hợp này, nếu vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người đó để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đối phương và con chưa thành niên.

    Như vậy, việc chia tài sản trong trường hợp đơn phương ly hôn khi vợ hoặc chồng ngoại tình sẽ được Tòa án xem xét theo yếu tố lỗi của người ngoại tình để xác định tỷ lệ thích hợp.

    Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không? Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về chia tài sản khi đơn phương ly hôn không?

    Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về chia tài sản khi đơn phương ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:

    Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

    1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

    a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;

    b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;

    c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.

    Đồng thời, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:

    Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

    1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.

    2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

    4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.

    5. Tranh chấp về cấp dưỡng.

    6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

    Như vậy, theo quy định, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm liên quan đến việc chia tài sản chung khi đơn phương ly hôn.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Đơn phương ly hôn khi vợ, chồng ngoại tình thì có được chia tài sản nhiều hơn không? Ngoại tình như thế nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Tài sản chỉ do vợ hoặc chồng đứng tên là tài sản chung hay riêng?

    Tài sản chỉ do vợ hoặc chồng đứng tên là tài sản chung hay riêng?

    Thông thường những tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung, tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Vậy thì cụ thể theo quy định hiện nay, tài sản chỉ do vợ hoặc chồng đứng tên là tài sản chung hay riêng? Cùng tìm hiểu về vấn đề này ở nội dung bài viết sau:

    Căn cứ pháp lý

    Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

    Phân tích trường hợp tài sản chỉ do một bên vợ hoặc chồng đứng tên được coi là tài sản chung

    Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng là những tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của cả hai vợ chồng, được hình thành và sử dụng cho mục đích chung của gia đình trong thời kỳ hôn nhân. Nội dung chính:

    – Tài sản chung bao gồm:

    + Tài sản do vợ chồng cùng tạo ra: Tiền lương, hoa hồng, lợi nhuận từ kinh doanh,… do cả hai vợ chồng cùng làm việc tạo ra.

    + Thu nhập cá nhân: Tiền lương, hoa hồng,… do mỗi người kiếm được trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

    + Hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng: Tiền thuê nhà, lãi suất ngân hàng,… phát sinh từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    + Tài sản thừa kế hoặc tặng cho chung: Tài sản mà vợ chồng cùng được thừa kế hoặc nhận được do tặng cho từ người khác trong thời kỳ hôn nhân.

    + Tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận: Bất kỳ tài sản nào mà vợ chồng tự nguyện đồng ý coi là tài sản chung.

    – Đặc điểm:

    + Sở hữu chung hợp nhất: Cả hai vợ chồng đều có quyền sở hữu như nhau đối với tài sản chung.

    + Dùng cho mục đích chung: Tài sản chung được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    + Phân chia khi cần thiết: Khi ly hôn, ly thân hoặc một bên qua đời, tài sản chung sẽ được chia theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận của vợ chồng.

    – Lưu ý:

    + Trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng, tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung.

    + Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung, trừ trường hợp có được riêng.

    – Ví dụ:

    + Vợ chồng cùng kinh doanh một cửa hàng, lợi nhuận thu được từ cửa hàng là tài sản chung.

    + Chồng đi làm công ăn lương, tiền lương của anh ấy là tài sản chung.

    + Vợ được thừa kế một mảnh đất, mảnh đất này là tài sản riêng của vợ.

    + Hoa lợi thu được từ mảnh đất vợ thừa kế là tài sản chung.

    + Vợ chồng mua nhà chung bằng tiền tiết kiệm của cả hai, căn nhà đó là tài sản chung.

    Tài sản chung của vợ chồng là một phần quan trọng trong đời sống hôn nhân. Việc hiểu rõ quy định về tài sản chung sẽ giúp vợ chồng sử dụng tài sản hợp lý, tránh tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của bản thân.

    Phân tích trường hợp tài sản chỉ do một bên vợ hoặc chồng đứng tên được coi là tài sản riêng

    Dựa trên Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm:

    – Tài sản cá nhân trước hôn nhân: Gồm tài sản mà mỗi người sở hữu trước khi kết hôn, bao gồm: Bất động sản (nhà cửa, đất đai); Tiền tiết kiệm, tài khoản ngân hàng; Vàng bạc, trang sức; Xe cộ; Tài sản trí tuệ (sáng chế, bản quyền); …

    – Tài sản thừa kế hoặc được tặng riêng trong hôn nhân: Gồm tài sản mà vợ, chồng nhận được do thừa kế hoặc được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, ví dụ: Bất động sản (nhà cửa, đất đai); Tiền, tài khoản ngân hàng; Vàng bạc, trang sức; Di vật, cổ vật; …

    – Tài sản được chia riêng theo quy định pháp luật: Gồm tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, bao gồm: Tài sản chia cho vợ, chồng khi ly hôn, ly thân; Tài sản chia cho vợ, chồng khi một bên chết; …

    – Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu: Gồm tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của cá nhân vợ, chồng, ví dụ: Quần áo, giày dép; Đồ dùng cá nhân; Dụng cụ làm việc; …

    – Tài sản khác theo quy định pháp luật: Gồm tài sản được quy định là tài sản riêng của vợ, chồng theo luật pháp, ví dụ: Tiền trợ cấp thôi việc; Bồi thường thiệt hại do thương tích, tổn hại sức khỏe; Thu nhập từ hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật

    – Lưu ý:

    + Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.

    + Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

    Việc phân biệt tài sản riêng và tài sản chung của vợ, chồng có ý nghĩa quan trọng trong các trường hợp như: Ly hôn, ly thân; Chia tài sản thừa kế; Giải quyết tranh chấp về tài sản. Do đó, vợ, chồng cần nắm rõ quy định về tài sản riêng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để bảo vệ quyền lợi của bản thân. Để được tư vấn cụ thể về vấn đề tài sản riêng của vợ, chồng, bạn nên tham khảo ý kiến của luật sư.

     Hậu quả pháp lý của việc xác định tài sản chỉ do một bên vợ hoặc chồng đứng tên là tài sản chung hay riêng

    Dựa trên các quy định về tài sản chung và riêng của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, ta có thể tóm tắt hai trường hợp xử lý khi có tranh chấp tài sản như sau:

    * Trường hợp 1: Tài sản được chứng minh là tài sản riêng

    – Điều kiện: Người đứng tên tài sản phải chứng minh được bằng căn cứ hợp pháp rằng tài sản đó thuộc sở hữu riêng của mình. Căn cứ này có thể bao gồm:

    + Hợp đồng mua bán, tặng cho, thừa kế: Chứng minh nguồn gốc tài sản đến từ tài sản riêng trước hôn nhân, được thừa kế hoặc tặng cho riêng trong hôn nhân.

    + Hóa đơn, chứng từ thanh toán: Chứng minh việc mua sắm tài sản bằng tài sản riêng.

    + Lời khai của nhân chứng: Xác nhận nguồn gốc và quyền sở hữu tài sản.

    + Bằng chứng khác: Có giá trị chứng minh theo quy định của pháp luật.

    – Nếu người đứng tên chứng minh thành công, tài sản sẽ được xác định là tài sản riêng và không thuộc diện chia tài sản chung khi có tranh chấp.

    + Tài sản chung là những tài sản thuộc sở hữu hợp nhất của vợ chồng, được sử dụng để đảm bảo các nhu cầu chung của gia đình và thực hiện các nghĩa vụ phổ biến của vợ chồng.

    + Vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc sử dụng, quản lý và quyết định về tài sản chung.

    + Trong trường hợp ly hôn, tài sản chung sẽ được phân chia đều cho vợ chồng theo tỷ lệ và điều kiện được quy định bởi pháp luật.

    * Trường hợp 2: Tài sản không được chứng minh là tài sản riêng

    – Điều kiện: Người đứng tên không thể chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình bằng căn cứ hợp pháp.

    – Trong trường hợp này, tài sản sẽ được mặc nhiên coi là tài sản chung của vợ chồng và được chia theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận của vợ chồng khi có tranh chấp xảy ra.

    + Tài sản riêng là những tài sản thuộc sở hữu của riêng người vợ hoặc người chồng.

    + Người vợ hoặc người chồng có quyền tuyệt đối trong việc sử dụng, quản lý và quyết định về tài sản riêng của mình.

    + Khi xảy ra sự ly hôn, tài sản riêng sẽ được trả lại cho người sở hữu ban đầu mà không phải chia sẻ với người còn lại.

    – Lưu ý:

    + Việc chứng minh tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung có thể phức tạp và đòi hỏi sự đánh giá của cơ quan chức năng có thẩm quyền.

    + Để tránh tranh chấp, vợ chồng nên thỏa thuận rõ ràng về việc phân chia tài sản ngay từ khi kết hôn hoặc trong quá trình chung sống.

    + Nên lưu giữ đầy đủ các giấy tờ, hóa đơn, chứng từ liên quan đến việc mua sắm, sử dụng tài sản để làm bằng chứng khi cần thiết.

    Việc xác định rõ ràng giữa tài sản chung và tài sản riêng trong hôn nhân không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi cá nhân mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp pháp lý liên quan đến tài sản trong quá trình hôn nhân và sau khi ly hôn. Điều này giúp tạo nên một môi trường hôn nhân ổn định và công bằng, đồng thời bảo vệ sự công bằng và minh bạch trong quản lý tài sản gia đình

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Tài sản chỉ do vợ hoặc chồng đứng tên là tài sản chung hay riêng?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

  • Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn khi ra tòa sẽ căn cứ vào đâu?

    Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn khi ra tòa sẽ căn cứ vào đâu?

    Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khi hai vợ chồng không thể thỏa thuận được với nhau về số tiền cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thì tòa án sẽ đưa ra phán quyết về vấn đề này. Vậy, tòa án căn cứ vào đâu để đưa ra cơ sở xác định số tiền cấp dưỡng?

    cấp dưỡng

    Căn cứ pháp lý

    Luật hôn nhân và gia đình 2014

    Căn cứ xác định mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn?

    Căn cứ Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

    1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

    2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con

    3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

    Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

    Như vậy, nếu bạn không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến khi con đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

     

    Về mức cấp dưỡng được quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

    1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.

    Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con là bao nhiêu mà phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nhu cầu thiết yếu được hiểu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.

    Căn cứ giải quyết việc ly hôn và quyền nuôi con sau ly hôn

    1. Căn cứ giải quyết ly hôn

    Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

    1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

    Theo quy định này, pháp luật cho phép vợ hoặc chồng đơn phương ly hôn. Tuy nhiên, nếu như thuận tình ly hôn thì Tòa án xem xét sự thuận tình, tự nguyện của các bên, còn đơn phương ly hôn thì Tòa án lại xem xét chủ yếu căn cứ mà bên đơn phương ly hôn đưa ra. Điều luật quy định rằng: “hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.

    Hôn nhân của vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng khi:

    – Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    – Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    – Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

    -> Việc bạn và chồng chung sống mà không đăng ký kết hôn hiện nay ly hôn thì tòa án vẫn giải quyết về vấn đề con chung hoặc tài sản chung.

    Căn cứ Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình về việc Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

    1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

    2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.”

    2. Quyền nuôi con sau ly hôn

    Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:

    1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

    Người không trực tiếp nuôi con là anh vẫn có quyền thăm nom và chăm sóc cháu mà không ai có quyền ngăn cản

    Cụ thể tại điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

    “2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con”.

    Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn?

    Căn cứ Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định vè nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

    1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

    2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

    3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

    Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

    Như vậy, sau khi ly hôn chồng chị không quan tâm, chăm sóc con và không thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng như đã thỏa thuận và cắt đứt liên lạc với chị nhằm trốn tránh trách nhiệm đây được coi là hành vi vi phạm nghĩa của cha khi không trực tiếp nuôi con. Vì vậy, chị có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án án giải quyết, bên cạnh đó chị cũng phải chuẩn bị những giấy tờ, chứng cứ, liệt kê chi phí cho việc chăm sóc con để làm căn cứ đưa ra mức trợ cấp 2 triệu đồng trên một tháng là hoàn toàn hợp lý và yêu cầu chồng chị thực hiện việc thăm nom con để làm trồn trách nhiệm của một người cha.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn khi ra tòa sẽ căn cứ vào đâu?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

  • Thủ tục ly hôn và giành quyền nuôi con như thế nào?

    Thủ tục ly hôn và giành quyền nuôi con như thế nào?

    Một trong những loại tranh chấp khó khăn trong việc phán quyết nhất là “tranh chấp quyền nuôi con” khi hai vợ chồng thực hiện thủ tục ly hôn tại tòa án. Vậy pháp luật quy định về việc giải quyết loại tranh chấp này như thế nào ?

    Quy định của pháp luật về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

    Căn cứ pháp lý

    Luật hôn nhân gia đình 2014

    Bộ luật tố tụng dân sự 2015

    Thủ tục ly hôn và giành quyền nuôi con như thế nào?

    Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :

    Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

    1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ củavợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

    3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

    Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    – Như vậy, khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án bạn phải chứng minh về việc cuộc hôn nhân của vợ chồng bạn không hạnh phúc và không thể kéo dài được nữa.

    Về thủ tục ly hôn đơn phương, bạn chuẩn bị hồ sơ như sau:

    – Đơn khởi kiện ly hôn.

    – Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.

    – Bản sao có chứng thực Giấy khai sinh của con chung (nếu có con chung).

    – Bản sao có chứng thực CMND, sổ hộ khẩu của cả 2 vợ chồng.

    -Giấy tờ chứng minh tài sản chung;

    Hồ sơ này bạn nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn đang cư trú, làm việc.

    Thời gian giải quyết: Căn cứ quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ việc đơn phương ly hôn là không quá 04 tháng. Nếu vụ việc có tính chất phức tạp thì có thể gia hạn thêm, nhưng không quá 02 tháng.

    Còn về quyền nuôi con thì theo khoản 3 điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

    3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Căn cứ vào quy định trên, con bạn mới 14 tuổi nên theo luật hôn nhân và gia đình thì bạn là mẹ sẽ được quyền ưu tiên nuôi con. Ở đây, bạn chỉ cần chứng minh mình đảm bảo sức khỏe, tinh thần cũng như tài chính để đảm bảo chăm sóc được cho con. Vấn đề quan trọng nhất đó chính là về mặt sức khỏe.

    Thủ tục ly hôn cho hai vợ chồng trong trường hợp thuận tình ly hôn?

    Hồ sơ ly hôn thuận tình gồm:

    Theo đó, bạn chuẩn bị một bộ hồ sơ xin ly hôn gửi đến Tòa án nhân dân cấp huyện (đối với trường hợp ly hôn không có yếu tố nước ngoài) hoặc Tòa án nhân dân cấp tỉnh (đổi với trường hợp ly hôn có yếu tố nước ngoài) nơi vợ, chồng cư trú yêu cầu giải quyết. Hồ sơ yêu cầu giải quyết thuận tình ly hôn bao gồm:

    – Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

    – Bản chính giấy chứng nhận đăng kí kết hôn của hai vợ chồng.

    – Bản sao chứng thực giấy chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của 2 vợ chồng.

    – Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con chung (nếu có).

    – Bản sao chứng thực giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chung của 2 vợ chồng: như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đăng ký xe,…

    Thủ tục hòa giải thuận tình ly hôn

    Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014quy định:

    Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

    Như vậy, trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn thì Nhà nước và xã hội khuyến khích hòa giải ở cơ sở. Nếu hòa giải ở cơ sở không thành thì sau khi thụ lý đơn thuận tình ly hôn, sẽ tiến hành thủ tục hòa giải ở Tòa án theo quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân và gia đình 2014: Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

    Quyết định công nhận thuận tình ly hôn

    Nếu hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án lập biên bản về việc tự nguyện ly hôn và hòa giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không thay đổi ý kiến, Viện Kiểm sát cũng không phản đối thỏa thuận đó thì Tòa án quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không mở phiên Tòa khi có đầy đủ các điều kiện sau:

    – Hai bên đã tự thỏa thuận được với nhau về việc phân chia hoặc không phân chia tài sản.

    – Hai bên đã tự thỏa thuận được với nhau về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con.

    – Sự thỏa thuận của hai vợ chồng trong từng trường hợp cụ thể này là đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con.

    Thời gian giải quyết thuận tình ly hôn

    Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, Tòa án phải thụ lý vụ án, thông báo để đương sự nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi nộp án phí, người khởi kiện nộp cho Tòa biên lai tạm ứng án phí để Tòa thụ lý vụ án.

    Trong thời hạn 15 ngày, Tòa án hòa giải không thành mà xét thấy các bên thực sự thuận tình và tự nguyện ly hôn, đồng thời đã thỏa thuận được về việc phân chia tài sản, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và công nhận những thỏa thuận đó; nếu không thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích của vợ và con thì Tòa án quyết định.

    Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hòa giải không thành, nếu hai bên đương sự không thay đổi nội dung yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn thì Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn.

    Về mẫu đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, bạn có thể mua/xin trực tiếp tại Tòa án nhân dân nơi nộp đơn. Nếu bạn không có điều kiện đi lại bạn có thể tham khảo mẫu đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn .

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Thủ tục ly hôn và giành quyền nuôi con như thế nào?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

  • Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    Công ty Luật TNHH PT xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý

    Các loại tài sản chung của vợ chồng

    Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng gồm:

    – Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân,

    (trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014)

    – Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    – Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    – Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

    Khi nào có thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?

    Căn cứ Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:

    Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;

    Nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

    – Trường hợp thỏa thuận:

    Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

    – Trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết:

    Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 .

    Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại Điều 39 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:

    – Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản;

    Nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.

    – Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.

    – Trong trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

    Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

    Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    – Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    Lưu ý: Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

    – Thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.

    5. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    – Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung.

    Hình thức của thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

    “Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

    2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.”

    – Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

    Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    – Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

    – Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

    Xin trân trọng cảm ơn!

  • Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Trong quan hệ lao động, có những trường hợp người sử dụng lao động muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Nhằm tránh phát sinh tranh chấp và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, Bộ luật lao động Việt Nam có quy định các trường hợp người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Lao động năm 2019

    Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Điều kiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là gì?

    Căn cứ Bộ luật Lao động năm 2019, theo đó người sử dụng lao động được chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn với người lao động trong các trường hợp quy định tại Điều 36, như sau:

    Điều 36. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

    1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp sau đây:

    a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;

    b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

    Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động;

    c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;

    d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật này;

    đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;

    e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;

    g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.

    Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cần tuân thủ thời hạn báo trước cho người lao động. Cụ thể như sau:

    – Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau:

    a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

    b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;

    c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;

    d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

    – Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại điểm d và điểm e khoản 1 Điều này thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động.

    Ngoài ra, nếu như thuộc vào một trong các trường hợp sau đây thì người sử dụng lao động sẽ không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động.

    Điều 37. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

    1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 của Bộ luật này.

    2. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý.

    3. Người lao động nữ mang thai; người lao động đang nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

    Theo đó, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động sẽ phải tuân theo quy định tại Điều 36, Điều 37 Bộ luật lao động 2019. Trường hợp không tuân theo đúng những quy định trên, người sử dụng lao động đã chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

    Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật

    Trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật, nghĩa vụ của người sử dụng lao động sẽ được áp dụng theo Điều 41 Bộ luật lao động 2019.

    Điều 41. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

    1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

    Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.

    Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

    Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

    2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.

    3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.”

    Trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động

    Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động được quy định như sau:

    Thanh toán các nghĩa vụ tài chính

    Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày:

    a) Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

    b) Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;

    c) Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;

    d) Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.

    Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Nguyên tắc ưu tiên thanh toán

    Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản.

    Người sử dụng lao động có trách nhiệm khác sau đây:

    a) Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động;

    b) Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả.

    Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

    Người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động 2019 như sau:

    “Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

    1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:

    a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

    b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;

    c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;

    d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

    2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:

    a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;

    b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;

    c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;

    d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;

    đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;

    e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;

    g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.”

    Như vây, Bộ luật lao động mới không cần có lý do đặc biệt để đơn phương chấm dứt hợp đồng, người lao động chỉ cần tuân thủ thời gian báo trước theo quy định trên.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

     

  • Khái niệm, đặc điểm về bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng

    Khái niệm, đặc điểm về bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng

    Khái niệm về thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng. Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý:

    Bộ luật Dân sự năm 2015

    Khái niệm, đặc điểm về bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng

    Khái niệm về thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:

    Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng Việt: thiệt hại có nghĩa là “Bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần”, dưới góc độ khoa học pháp lý, thiệt hại được hiểu là những tổn thất, mất mát về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ.

    Theo giáo trình Luật dân sự 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội: “thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng,… của cá nhân”.

    Như vậy từ các phân tích nêu trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm: thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng là những tổn hại, suy giảm về sức khỏe và mất mát về thể chất của con người do bị người khác hoặc tài sản mà họ đang quản lý xâm phạm.

    Thiệt hại do xâm phạm sức khỏe và tính mạng có thể được chia làm hai phần đó là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Theo quy định tại khoản 2 Điều 590 và khoản 2 Điều 591 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015:

    “Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.”

    “Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này”

    Theo đó thiệt hại về vật chất là thiệt hại thực tế có thể trị giá được bằng tiền và có căn cứ để chứng minh về sự mất mát, giảm sút về lợi ích vật chất hay những chi phí ngăn chặn, khắc phục thiệt hại của người bị thiệt hại. Như vậy, trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

    Thiệt hại về tinh thần là thiệt hại phi vật chất và khó đưa ra tính toán, cân đo, đong đếm được một cách chính xác. Về cơ bản, tổn thất về tinh thần được hiểu là sự suy sụp về tâm lý, sự đau đớn phải gánh chịu, hoang mang, lo lắng, đau thương,… đối với sự mất mát trên cơ thể mình hoặc cái chết đối với người bị thiệt hại.

    Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.

    Khái niệm về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:

    Bồi thường thiệt hại là một trong những trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến những hậu quả bất lợi về tài sản của người gây ra thiệt hại để bù đắp những thiệt hại mà họ đã gây ra cho người khác.

    Khái niệm, đặc điểm về bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng

    Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng được BLDS năm 2015 quy định tại chương XX về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, chương XX không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng hay trách nhiệm BTTH do xâm phạm sức khỏe, tính mạng là gì mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm,…

    Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra.

    Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Như vậy trách nhiệm được hiểu là bổn phận của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải BTTH tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc hợp đồng mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.

    Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

    “1. Người nào có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng,… của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có khác.

    3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

    Như vậy, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng là trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại hoặc những người thân của họ.

    Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác như sau:

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh khi một người có hành vi vi phạm pháp luật (kể cả vi phạm về quản lý để tài sản gây thiệt hại) xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác thì phải bồi thường thiệt hại.

    Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:

    Ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước… thì trách nhiệm BTTH do xâm phạm sức khỏe, tính mạng có những đặc điểm chung sau đây:

    Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS năm 2015 ở Chương XX và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.

    Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có mối nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.

    Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.

    Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường.

    Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.

    Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…

    Ngoài những đặc điểm chung của TNBTTH ngoài hợp đồng, TNBTTH do xâm phạm sức khỏe, tính mạng cũng có những đặc điểm riêng biệt sau:

    Thứ nhất, chỉ phát sinh khi có thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người.

    Có nhiều loại trách nhiệm phát sinh ngay khi có hành vi vi phạm xảy ra, mặc dù hành vi đó chưa gây ra hậu quả (ví dụ hành vi trộm cắp nhưng chưa đưa được tài sản ra ngoài phạm vi nhà của bị hại). Còn đối với trách nhiệm BTTH do xâm phạm sức khỏe, tính mạng chỉ phát sinh nếu đã có thiệt hại về sức khỏe, tính mạng đối với một chủ thể nhất định.

    Tức là sự vi phạm phải gây ra thiệt hại về mặt sức khỏe hoặc tính mạng cho người bị vi phạm. Nếu chỉ có hành vi vi phạm pháp luật nhưng không có thiệt hại về sức khỏe, tính mạng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng sẽ không đặt ra.

    Thứ hai, lỗi không phải là điều kiện bắt buộc phải chứng minh.

    Đối với trường hợp bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, người bị thiệt hại không cần phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Thực tế cho thấy, lỗi là yếu tố gắn liền với hành vi trái pháp luật và có ý thức của con người.

    Do đó, trong trường hợp tài sản gây thiệt hại thì bản thân tài sản không thể bị coi là có lỗi, bởi vì hoạt động gây thiệt hại của tài sản không thể coi là một hành vi có ý thức. Chính vì vậy lỗi không phải là điều kiện bắt buộc phải chứng minh của người bị thiệt hại.

    Thứ ba, Thiệt hại xảy ra khi bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại về tinh thần.

    Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác, người gây thiệt hại thường chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác phải chịu trách nhiệm cả vật chất lẫn tinh thần, cả thiệt hại trực tiếp dẫn gián tiếp.

    Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe không phát sinh đối với chủ thể là pháp nhân.

    Điều này xuất phát từ các đặc điểm bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nên trong quan hệ này, chủ thể là pháp nhân chỉ có thể đóng vai trò là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không thể là chủ thể được bồi thường thiệt hại.

    Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về về sức khỏe, tính mạng là chế định quan trọng nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người. Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể là cá nhân trong đó có quyền được bảo đảm về sức khỏe và tính mạng.

    Thông qua việc quy định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường, cách xác định trách nhiệm và mức bồi thường. thì chế định bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Bằng việc buộc người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có sự xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng của người khác, chế định này đã cụ thể hóa và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại, góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là nguyên tắc, là mục tiêu mà pháp luật đặt ra.

    Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng là chế định góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng. Thông qua chế định bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cùng với việc vận dụng chế định này để giải quyết các tranh chấp liên quan giúp cho những người có thể sẽ vi phạm phải cẩn trọng hơn trong việc thực hiện các hành vi của mình, không còn tình trạng sử dụng vũ lực để xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác một cách tùy tiện.

    Đối với chúng ta hiện nay, sức khỏe con người luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Qua đó bằng các biện pháp răn đe, giáo dục, xử phạt người vi phạm sẽ góp phần hạn chế được những vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, phòng ngừa các hành vi vi phạm khác.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Khái niệm, đặc điểm về bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

  • Thủ tục giải quyết việc ly hôn và quyền yêu cầu giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật?

    Thủ tục giải quyết việc ly hôn và quyền yêu cầu giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật?

    Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý

    Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

    Luật Hôn nhân và gia đình 2014

    1. Thủ tục giải quyết việc ly hôn theo quy định pháp luật?

    Thủ tục giải quyết việc ly hôn là một quá trình phức tạp và được thực hiện theo 2 hình thức khác nhau: ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương.

    Thủ tục giải quyết và quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn theo quy định của pháp luật

    1.1. Thủ tục giải quyết ly hôn thuận tình

    Thủ tục giải quyết ly hôn thuận tình gồm 5 bước sau: Nộp hồ sơ, Tòa án sẽ kiểm tra đơn, nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa án tiến hành mở phiên hòa giải, Tòa án sẽ ra quyết định.

    Quy trình nộp đơn giải quyết ly hôn thuận tình được diễn ra như sau:

    • Bước 1:Nộp hồ sơ khởi kiện xin ly hôn tại TAND quận/huyện nơi cư trú, làm việc của vợ hoặc chồng.
    • Bước 2: Sau khi nhận hồ sơ, Tòa án sẽ kiểm tra đơn và ra thông báo tiền tạm ứng án phí.
    • Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và nộp lại biên lai cho Tòa án;
    • Bước 4: Trong 15 ngày làm việc, Tòa án tiến hành mở phiên hòa giải.
    • Bước 5: Sau 07 ngày kể từ ngày hòa giải không thành, nếu các bên không thay đổi ý kiến, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận ly hôn.

    Thời gian giải quyết: Hiện pháp luật chưa có quy định cụ thể về thời gian giải quyết ly hôn thuận tình.

     Hồ sơ khởi kiện xin ly hôn thuận tình gồm:

    • Đơn yêu cầu thuận tình ly hôn (theo mẫu của Tòa);
    • Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);
    • Sổ hộ khẩu, CMND/CCCD (bản sao);
    • Bản sao giấy khai sinh của con ( nếu có);
    • Các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh tài sản chung như: GCNQSDĐ (sổ đỏ); sổ tiết kiệm; Đăng ký xe;… (bản sao).

    1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết ly hôn đơn phương

    Trong trường hợp ly hôn đơn phương, quy trình giải quyết sẽ được thực hiện theo trình tự 05 bước sau: Chuẩn bị hồ sơ đơn phương ly hôn, nộp hồ sơ đơn ly hôn đơn phương, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết đơn ly hôn đơn phương, Tòa án tiến hành hòa giải, nộp tiền tạm ứng án phí ly hôn đơn phương.

    Quy trình nộp đơn giải quyết ly hôn đơn phương được diễn ra như sau:

    • Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ đơn phương ly hôn;
    • Bước 2: Nộp hồ sơ đơn ly hôn đơn phương tại Tòa án có thẩm quyền;
    • Bước 3: Sau 5 ngày kể từ khi nhận được đơn yêu cầu ly hôn đơn phương Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết đơn ly hôn đơn phương;
    • Bước 4: Tòa án tiến hành hòa giải;
    • Bước 5: Nộp tiền tạm ứng án phí ly hôn đơn phương tại Chi cục Thi hành án.

    Thời gian giải quyết:

    • Thời hạn giải quyết vụ án ly hôn đơn phương cấp sơ thẩm tối đa là 08 tháng,
    • Thời hạn giải quyết kháng cáo ly hôn tối đa 05 tháng kể từ khi Tòa thụ lý vụ án.

    Hồ sơ ly hôn đơn phương gồm:

    • Đơn xin ly hôn đơn phương theo mẫu;
    • Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính );
    • Bản sao công chứng sổ hộ khẩu/CMND của vợ và chồng;
    • Bản sao công chứng giấy khai sinh của con;
    • Các hồ sơ, tài liệu khác chứng minh tài sản chung như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe, sổ tiết kiệm (bản sao công chứng).

    Khi tiến hành thủ tục ly hôn tại tòa án, các bên cần lưu ý:

    • Nguyên đơn phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt phải có lý do chính đáng và đơn đề nghị hoãn phiên tòa.
    • Trong trường hợp nguyên đơn không có mặt tại phiên xét xử và không có lý do chính đáng để từ bỏ quyền khởi kiện, tòa án sẽ đưa ra quyết định đình chỉ giải quyết và trả hồ sơ cho người nộp đơn.
    • Các bên có thể ủy quyền người khác thực hiện thủ tục hồ sơ nhưng không được ủy quyền tham gia tố tụng.
    • Cần tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ tục tố tụng tại tòa án để đảm bảo quyền lợi cho các bên.

    Như vậy, các bên cần chủ động tham gia đầy đủ và tuân thủ các quy định của tòa án trong quá trình ly hôn.

    1.3. Tòa án nào có quyền giải quyết ly hôn theo quy định pháp luật?

    Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thẩm quyền giải quyết ly hôn được xác định như sau:

    • Đối với trường hợp ly hôn đơn phương, Tòa án nhân dân cấp huyện tại nơi bị đơn đang cư trú, có thẩm quyền giải quyết ly hôn, bỏ vợ hoặc chồng, hủy việc kết hôn trái pháp luật.
    • Đối với trường hợp ly hôn thuận tình: Tòa án nhân dân cấp huyện tại nơi một trong hai bên đang cư trú có thẩm quyền giải quyết ly hôn.
    •  Thẩm quyền giải quyết các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương. Cụ thể, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án tỉnh/thành phố nơi một trong hai bên đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam. Ly hôn có yếu tố nước ngoài là trường hợp một hoặc cả hai bên là người nước ngoài, hoặc người Việt Nam đang sinh sống, làm việc, học tập… tại nước ngoài.

    Như vậy, khi có yếu tố nước ngoài liên quan, thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án cấp tỉnh, không phải Tòa án cấp huyện, để đảm bảo xử lý thống nhất.

    Thủ tục giải quyết và quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn theo quy định của pháp luật

    2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định như thế nào?

    Người có quyền yêu cầu xử lý ly hôn là vợ, chồng hoặc cả hai và bên thứ ba theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ theo điều 51 Luật Hôn nhân gia đình 2014 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định như sau:

    • Vợ, chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề ly hôn;
    • cha, mẹ hoặc người thân khác cũng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề ly hôn trong trường hợp một trong hai bên (vợ hoặc chồng) bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình. Đồng thời, nếu họ là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng hoặc vợ gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần của họ.
    • Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang mang thai, sinh con hoặc khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

    Theo quy định hiện hành của Luật hôn nhân và gia đình 2014, có hai hình thức ly hôn là ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương (ly hôn theo yêu cầu của một bên). Tương ứng với mỗi hình thức là những quy định khác nhau. Cụ thể như sau:

    • Quy định về giải quyết thuận tình ly hôn thuận tình được đề cập trong Điều 55 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:

    Trong trường hợp cả vợ và chồng đều đồng ý yêu cầu ly hôn, nếu Tòa án nhận thấy rằng cả hai bên đều tự nguyện chấp nhận ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, trách nhiệm trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái, đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án sẽ công nhận quyết định ly hôn thuận tình. Ngược lại, nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết các vấn đề liên quan đến việc ly hôn.

    • Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về giải quyết ly hôn đơn phương như sau:

    Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà quá trình hòa giải tại Tòa án không đạt được thỏa thuận giữa các bên thì Tòa án sẽ giải quyết việc ly hôn nếu có căn cứ về hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, dẫn đến tình trạng trầm trọng trong hôn nhân, đời sống chung không thể tiếp tục, và mục đích của hôn nhân không thể đạt được.

    Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu ly hôn, Tòa án sẽ giải quyết vụ án ly hôn.

    Nếu có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luậtnày, Tòa án sẽ giải quyết vụ án ly hôn nếu có căn cứ về hành vi bạo lực gia đình của chồng hoặc vợ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, và tinh thần của người kia.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Thủ tục giải quyết việc ly hôn và quyền yêu cầu giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

     

  • Năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân?

    Năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân?

    Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được Nhà nước điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Nhà nước quy định cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật những năng lực nhất định gọi là năng lực pháp luật. Vậy năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân như thế nào? Công ty Luật TNHH PT chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về vấn đề này như sau:

    Căn cứ pháp lý:

    Bộ luật Dân sự năm 2015

    Năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân?

    Năng lực pháp luật là gì?

    Năng lực pháp luật là khả năng cá nhân, tổ chức có các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, quyền ở đây là những cách xử sự mà Nhà nước cho phép chủ thể tham gia quan hệ pháp luật được làm, còn nghĩa vụ là những cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc chủ thể đó phải làm theo quy định của pháp luật.

    Trong mỗi quan hệ pháp luật khác nhau, các quyền và nghĩa vụ của chủ thể sẽ khác nhau theo quy định của ngành luật điều chỉnh quan hệ đó, chẳng hạn: năng lực pháp luật dân sự, năng lực pháp luật hành chính, năng lực pháp luật hình sự,…Tức là, trong mỗi quan hệ pháp luật cụ thể thì pháp luật quy định cho chủ thể năng lực pháp luật khác nhau.

    Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, có thể là pháp nhân.

    Đặc điểm của năng lực pháp luật:

    Thứ nhất: Năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của mỗi chủ thể.

    Đối với cá nhân, năng lực pháp luật xuất hiện ngay khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết đi. Ví dụ: mỗi cá nhân sinh ra đều có quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đối với hình ảnh cá nhân,… ngược lại mọi cá nhân có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đối với hình ảnh của người khác,…

    Tuy nhiên, trong một số trường hợp, năng lực pháp luật của cá nhân xuất hiện từ khi người đó còn trong bào thai (như quyền thừa kế, quyền này được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ nếu người đó được sinh ra và còn sống); có những quyền nhân thân mà đến một độ tuổi nhất định mới có (như: quyền của vợ, chồng, giám hộ,…). Cũng có những quyền mà sau khi cá nhân chết đi mới có (như: quyền được khai tử) hoặc khi chết đi mà quyền đó vẫn còn(như: quyền giữ bí mật đời tư, quyền hình ảnh,…).

    Đối với tổ chức, năng lực pháp luật xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc được Nhà nước thừa nhận. Năng lực pháp luật của tổ chức chấm dứt khi tổ chức đó giải thể, phá sản hoặc sáp nhập vào một tổ chức khác. Chẳng hạn như: quyền thừa kế, quyền đối với tên, quyền tài sản,…

    Thứ hai: Năng lực pháp luật không phải là thuộc tính tự nhiên mà được Nhà nước điều chỉnh trên cơ sở các quy định pháp luật.

    Chỉ những quyền và nghĩa vụ được Nhà nước công nhận hay điều chỉnh bằng các chế định pháp luật thì mới làm hình thành năng lực pháp luật của cá nhân, tổ chức. Chẳng hạn, cá nhân trong quan hệ họ hàng có quyền và nghĩa vụ nhất định với nhau nhưng các quyền và nghĩa vụ đó không được Nhà nước điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ đó không phải là năng lực pháp luật của cá nhân.

    Thứ ba: Năng lực pháp luật của không thể chuyển giao, không bị hạn chế, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    Năng lực pháp luật chỉ là chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chưa liên quan đến trách nhiệm khi chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó nên năng lực pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức là như nhau cả về mức độ, độ tuổi, trình độ văn hóa, khả năng nhận thức,… Chẳng hạn, người bị thiểu năng về trí tuệ cũng có quyền thừa kế như người có khả năng nhận thức bình thường, dù là trẻ em hay người lớn đều có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật.

    Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân:

    Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.

    Theo đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, mọi cá nhân đều bình đẳng, không ai bị hạn chế, bị phân biệt đối xử, cho dù khác nhau về giới tính, dân tộc, tôn giáo, độ tuổi, trình độ, nghề nghiệp … năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra, không thay đổi với bất kỳ lý do gì, nó gắn liền với sự tồn tại của cá nhân đó và cũng không tự mất đi, trừ trường hợp cá nhân đó chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết.

    Tuy nhiên, việc trong trường hợp Tòa án tuyên bố chết thì vẫn có thể khôi phục lại khi người bị tuyên bố trở về và có yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố chết.

    Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân:

    – Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

    – Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.

    – Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.

    Theo đó, thì quyền nhân thân không gắn với tài sản có thể được hiểu là quyền của mỗi cá nhân có họ tên, quyền khai sinh khi được sinh ra, quyền khai tử khi chết đi, quyền được sống không ai được phép xâm phạm đến tính mạng của người khác trừ trường hợp được pháp luật cho phép, quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm …

    Năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân?

    Theo quy định của BLDS về quyền sỡ hữu bao gồm ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Quyền thừa kế, có thể hiểu là quyền của người có di sản có quyền định đoạt việc để lại tài sản cho ai cũng như được hưởng phần di sản nếu được cho theo di chúc hoặc được chia theo pháp luật.

    Ngoài quyền sỡ hữu, quyền thừa kế, điều luật còn ghi nhận cá nhân còn có quyền khác đối với tài sản. Cá nhân khi thực hiện, xác lập các quan hệ dân sự thì có quyền và chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ phát sinh.

    Ngoài ra, theo Điều 18 BLDS còn quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác, có nghĩa là năng lực pháp luật dân sự về nhân thân được quy định chung cho tất cả các chủ thủ là cá nhân thì cá nhân đó tự có và tự chịu trách nhiệm, không thể chuyển giao, không bị hạn chế, cũng như các chủ thể không thể tự thỏa thuận với nhau về việc hạn chế về quyền nhân thân của nhau. Đây chính là đặc điểm để phân biệt giữa quyền nhân thân và các quyền khác.

    Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự và luật hành chính thì cá nhân có thể bị hạn chế hay bị tước bỏ một số quyền dân sự như cấm đảm nhiệm chức vụ quyền hạn, cấm đi khỏi nơi cư trú, bị quản chế…

    nhưng chỉ phát sinh và điều chỉnh cụ thể một cá nhân nào đó có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính và việc hạn chế hay tước bỏ này chỉ thực hiện theo một thời gian cụ thể theo bản án, quyết định, không phải thực hiện suốt đời, khi hết thời hạn thì năng lực pháp luật dân sự của các nhân đó vẫn được tiếp tục thực hiện như các chủ thể khác và vẫn được pháp luật dân sự bảo vệ khi có các chủ thể xâm phạm.

    Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân:

    Pháp nhân là một chủ thể đặc biệt tham gia vào các quan hệ xã hội. Để tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.

    Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Pháp nhân có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát sinh. Khác với năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp nhân, thậm chí với từng pháp nhân.

    Đặc điểm của năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

    Thứ nhất, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.

    Thứ hai, mọi pháp nhân đều bình đẳng về quan hệ pháp luật dân sự, đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào. Mọi pháp nhân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.

    Thứ ba, năng lực pháp luật của pháp nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định.

    Thứ tư, Nhà nước tạo điều kiện để đảm bảo năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được thực hiện qua các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội.

    Nội dung năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

    Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Giống với quy định về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.

    Những quyền và nghĩa vụ thuộc năng lực pháp luật của pháp nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Những quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới dạng “khả năng”, nếu pháp nhân muốn hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ đang ở dạng khả năng thành hiện thực thì phải thông qua hành vi của pháp nhân trên thực tế.

    Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ những thời điểm pháp nhân bắt đầu có năng lực pháp luật dân sự như sau:

    • Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập;
    • Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập;
    • Đối với pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.

    Từ thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự có thể tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng.

    Thời điểm kết thúc năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

    Khi pháp nhân giải thể, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì chấm dứt tư cách chủ thể trong các quan hệ pháp luật, cho nên năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm pháp nhân chấm dứt hoạt động.

    Kết luận: Năng lực pháp luật dân sự là một yếu tố quan trọng để xác định chủ thể trong các giao dịch dân sự hoặc trong các quan hệ dân sự. Năng lực pháp luật là khả năng cá nhân, tổ chức có các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, quyền ở đây là những cách xử sự mà Nhà nước cho phép chủ thể tham gia quan hệ pháp luật được làm, còn nghĩa vụ là những cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc chủ thể đó phải làm theo quy định của pháp luật.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về chủ đề Năng lực pháp luật là gì? Năng lực pháp luật của cá nhân và pháp nhân?

    Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Công ty Luật PT.

    CÔNG TY LUẬT PT

    Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!